Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa

Rate this post

✅✅✅ Download Miễn Phí !!! Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa bạn đang là sinh viên học chuyên ngành du lịch và bạn đang cần thêm nguồn tài liệu để có thể phát triển bài khoá luận của mình? Bài viết sau đây mình sẽ giới thiệu đến cho các bạn một nguồn tài liệu hoàn toàn hay và sẽ khai sáng thêm cho các bạn thêm được nhiều kiến thức để có các bạn có thể tiến hành làm hoàn thành bài khoá luận. Nguồn tài liệu mình sắp triển khai bao gồm di tích lịch sử văn hoá,du lịch văn hoá,khái quát chung về bảo tồn và phát triển du lịch… Hứa hẹn đây là một trong những cơ sở lý luận về bảo tồn và phát triển du lịch văn hoá đã được mình viết tâm đắc nhất từ trước đến nay.

Và trước đây mình cũng đã từng liệt kê một loạt đề tài và bài mẫu luận văn thạc sĩ du lịch  các bạn có thể xem và tham khảo tại webstite của mình, ngoài ra hiện tại bên mình có nhận viết thuê luận văn với đa dạng đề tài phổ biến nhất hiện nay nếu bạn đang có nhu cầu cần viết một bài luận văn thì đừng đắn đo và suy nghĩ nữa mà thay vào đó hãy liên hệ ngay đến dịch vụ viết thuê luận văn thạc sĩ của chúng tôi qua zalo/telegram : 0934.536.149 để được tư vấn báo giá làm bài trọn gói và hỗ trợ cho các bạn từ lúc bắt đầu đến khi bảo vệ thành công nhé.

1. Di tích lịch sử văn hóa

1.1. Khái niệm

Nước ta sau bao năm qua nhiều giai đoạn lịch sử thì những giá trị đọng lại chính là những giá trị lịch sử ngàn năm ghi dấu những công lao, lòng yêu nước của quân và dân ta. Đó cũng coi như những nhân chứng sống cho sự tàn bạo của những thế lực thù địch.  

Theo quy định của Luật di sản văn hóa thì “Di tích lịch sử – văn hóa  là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”

Theo đó, di tích lịch sử văn hóa chính là những giá trị công trình xây dựng, kiến trúc nghệ thuật, các địa điểm và các di vật, khảo vật, cổ vật, bảo vật quốc gia được xây dựng tại các thời kỳ trước đây và còn lưu lại đến bây giờ thuộc công trình, địa điểm mang giá trị lịch sử văn hóa từ  xa xưa cho đến hiện nay. Và hiện này tùy thuộc vào gí trị, ý nghĩa lịch sử…mà chia thành di tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương; di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia; di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.

XEM THÊM : Tham Khảo Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ

Di tích lịch sử – văn hoá phải có một trong các tiêu chí sau:

1) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước;

2) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;

3) Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kì cách mạng, kháng chiến;

4) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;

5) Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

Căn cứ vào giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học di tích lịch sử – văn hoá được chia thành: dị tích cấp tỉnh là di tích có giá trị tiêu biểu của địa phương; di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia; di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia.

1.2 Phân loại

Căn cứ Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2001, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa, các di tích được phân loại gồm: di tích lịch sử – văn hóa; di tích kiến trúc nghệ thuật; di tích khảo cổ; di tích thắng cảnh và di tích lịch sử cách mạng.

  • Di tích lịch sử văn hóa

Theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 4 Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009), di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc loại hình di sản văn hóa vật thể.

Di tích lịch sử – văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.

Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.

  • Di tích kiến trúc nghệ thuật

Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Các di tích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp, phố cổ Hội An, nhà thờ Phát Diệm, chùa Keo, đình Tây Đằng, Chùa Phật Tích.

  • Di tích khảo cổ

Di tích khảo cổ là những thứ còn ở quá khứ được gìn giữ và lưu trữ lại. Bởi vậy di tích khảo cổ có thể hiểu là những di tích và vết tích còn sót lại của quá khứ được lưu giữ bởi con người để cho các nhà khảo cổ học nghiên cứu.

  • Di tích thắng cảnh

Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.

  • Di tích lịch sử cách mạng

Di tích cách mạng – kháng chiến là một bộ phận cấu thành hệ thống các di tích lịch sử – văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tôn giáo tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu… ở chỗ: đó là những địa điểm cụ thể, công trình kiến trúc có sẵn (nhà ở, đường phố…), là những công trình được con người tạo nên phù hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền với những sự kiện cụ thể, nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích. Loại hình di tích này rất đa dạng, phong phú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng thời cũng rất dễ bị lãng quên, dễ biến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết và theo thời gian. Bởi vậy các di tích này vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác dụng nếu không được quan tâm đặc biệt.

Những nội dung mình đã triển khai trên đây là một số nguồn tài liệu về cơ sở lý luận về bảo tồn và phát triển du lịch văn hoá mà mình đã liệt kê và chia sẻ trên đây cho các bạn, và sau đây mình sẽ tiếp tục triển khai đến cho các bạn thêm phần còn lại để các bạn có thể có thêm thông tin để tiến hành làm bài luận văn của mình.

1.3 Giá trị và ý nghĩa

Di tích từ lâu đã là “tiếng vang” của quá khứ, khi giá trị cuộc sống ngày càng được nâng cao, con người dần sống vì lợi ích cá nhân mà quên đi những truyền thống lịch sử, những tinh thần đoàn kết thì những giá trị di tích lịch sử lại càng phải được nâng cao hơn.

Một dân tộc hào hùng của nước ta chỉ được thể hiện qua những di tích mà từ đó các bạn bè quốc tế cũng như những thế lực âm mưu muốn chiếm nước ta một lần nữa phải nhận ra lịch sử ta trong quá khứ đã là một dân tộc, cộng đồng dân cư yêu nước, có tinh thần đoàn kết cao, là những minh chứng lịch sử cho một dân tộc hào hùng, nhìn vào một di tích lịch sử văn hóa người ta có thể nhận thấy trình độ phát triển trong quá khứ của một dân tộc, cộng đồng dân cư, tìm thấy những giá trị lịch sử của dân tộc, sau hàng trăm năm hay ngàn năm thì những giá trị này vẫn mãi lưu giữ, không phải ngày càng bị phai nhạt. Cũng vì nhận thức được những giá trị mà di tích lịch sử văn hóa mang lại Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương, chính sách đầu tư nguồn lực để dốc lòng bảo vệ, gìn giữ trên khắp cả nước.

Một di tích lịch sử văn hóa không thể đem ra so sánh hay quy đổi thành tiền hay tài sản khác. Chúng ta không thể lấy con mắt thời này để nhìn xem giá trị này có còn giá trị hay không được, không thể dùng tiền bạc hay cho rằng công nghệ hiện nay hiện đại có thể làm ra được hàng trăm những công trình, hay sáng tác ra được những bài ca, hát hay những chiếc áo dài đẹp, hấp dẫn, lôi cuốn hơn gấp trăm lần.

Trong bối cảnh phát triển như hiện nay, thế giới ngày càng “phẳng”, con người dân chạy theo những thứ gọi là “thường thượng”, “gu” của thế giới mà dần quên đi hoặc thay đổi, thậm chí là đánh mất đi những giá trị có ý nghĩa với đất nước ta từ hàng nghìn năm nay. Khi thế giới đang được hiện đại hóa và phát triển hơn thì ngày càng lan tỏa, nhiều văn hóa nước ngoài du nhập vào Việt Nam và trở nên phổ quát, thì việc gìn giữ những nét văn hóa riêng biệt, nhất là những di tích hữu hình càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Mỗi một di tích tồn tại nó đều có những ý nghĩa riêng tại thời điểm đó, trải qua bao nhiêu trắc trở, những lúc khó khăn mới có thể được hình thành toàn diện và đến thời kỳ của chúng ta nhiệm vụ là bảo vệ. Đó không chỉ là những bức tượng, ngôi đền cũ kỷ, bài hát đã lỗi thời, hay những chiếc áo dài được may từ những chất liệu đơn giản mà chúng còn thể hiện niềm tự hào, tình yêu quê hương, đất nước, văn hóa truyền thống để có được những giá trị như bây giờ. Chính vì vậy, di tích lịch sử văn hóa chính là những giá trị giúp cho lớp trẻ có cách nhìn đúng đắn đối với những nền văn hóa được du nhập vào nước ta. Từ đó, góp phần vào việc gìn giữ giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, không để “hòa tan” trong thế giới hội nhập hiện nay.

Cơ sở lý luận về phát triển du lịch văn hoá hiện nay, trên khắp cả nước ta có rất nhiều những di tích lịch sử văn hóa được lưu giữ và bảo vệ thì vẫn còn những di tích đang chờ được “hồi sinh” ngay lúc này. Nhiều di tích trải thời tiết khắc nghiệt tại một số địa phương đã không thể còn nguyên vẹn, nhiều di tích còn có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề, những giá trị vật chất vô hình như bài chòi, ca kịch đang có xu hướng bị mất đi khi các bạn trẻ ngày này chỉ hứng thú với những nền văn hóa hiện đại, hoặc những chương trình về ca kịch cũng ít được công chiếu.

Theo quan điểm này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt một số chương trình mục tiêu phát triển văn hóa, trong đó gần đây nhất chính là giai đoạn 2016-2020 đã đưa ra nhiều nội dung nhằm hỗ trợ tôn tạo, bảo tồn và phát huy giá trị các di tích. Chủ trương đã có, mong rằng các cấp, các ngành, nhất là cấp ủy, chính quyền cùng nhân dân địa phương nơi có di tích đang xuống cấp cần sớm chung tay vào cuộc để những “diện mạo, hồn cốt” của tổ tiên, ông cha không bị phai nhòa theo năm tháng.

Di tích lịch sử văn hóa chính là tiếng vang của quá khứ, là một nhân chứng sống trong những cuộc chiến tranh bị quân xâm lược đô hộ. Chính vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào di tích lịch sử văn hóa được giữ gìn và trân quý.

XEM THÊM : 789 Đề Tài Mẫu Ngành Du Lịch Và Lữ Hành

1.4 Tình hình di tích lịch sử – văn hóa tại Việt Nam

Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử. Ở Việt Nam, một di tích khi đủ điều kiện sẽ được công nhận xếp hạng theo thứ tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt. Tính đến năm 2020, Việt Nam có hơn 41.000 di tích, thắng cảnh, trong đó có hơn 4.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 10 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (chiếm 56% số di tích cấp quốc gia và 46% tổng số di tích). Trong số di tích cấp quốc gia, có 112 di tích quốc gia đặc biệt và trong đó có 8 di sản thế giới2.

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa tại Việt Nam, các tỉnh có số lượng di tích lớn hơn 1.500 gồm: Hà Nội (5.175 di tích); Thái Bình (2.539 di tích); Bắc Giang (2.237 di tích); Bắc Ninh (1.859 di tích); Ninh Bình (1.879 di tích); Đồng Nai (1.800 di tích); Hà Nam (1.784 di tích); Nam Định (1.655 di tích); Thanh Hóa (1.535 di tích)3…

Nhận thức rõ tầm quan trọng và giá trị của di tích, Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng, quyết sách chiến lược cơ bản nhằm quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của di tích. Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) đã đề ra nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.

Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di tích văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc; bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian; kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch”.

Với tinh thần đó, tại các kỳ Đại hội XI, XII và XIII của Đảng, vấn đề coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cách mạng tiếp tục được nhấn mạnh, triển khai và cụ thể hóa. Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ), phần nội dung về lĩnh vực di tích chỉ rõ: “Đầu tư đồng bộ bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu trở thành di sản có chất lượng cao về khoa học bảo tồn và môi trường văn hóa, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế du lịch. Triển khai việc quy hoạch chi tiết đối với các di tích để giải quyết hợp lý, hài hòa, bền vững giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội…”

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hoá
Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hoá

2 Du lịch văn hóa

2.1 Khái niệm

Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.

Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục… gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế.

Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới.

Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo.

Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước  để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.

Cơ sở lý luận về bảo tồn du lịch văn hoá Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc.

Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số  nước thuộc khu vực Nam Mỹ….

Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam.

Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ).

Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)…

Là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam.

2.2 Ý nghĩa

Trước bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa cần được chú trọng đặc biệt. Và du lịch văn hóa là hoạt động thu hút các cơ quan chức trách chú ý hơn đến việc bảo tồn văn hóa.

Hình thức du lịch văn hóa có thể giúp thu về một nguồn ngân sách khổng lồ, đồng thời góp phần để cho các loại hình bản sắc dân tộc được lên ngôi.

Để bảo tồn sự đa dạng và nguyên bản các giá trị văn hóa là vấn đề không hề đơn giản, khiến các nhà chức trách đau đầu bởi các xu hướng hiện đại hóa, công nghệ 4.0 đang len lỏi vào từng ngóc ngách trong cuộc sống và “hòa tan” các giá trị.

Du lịch văn hóa đang góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn những giá trị văn hóa nguyên bản, đặc sắc thông qua các hoạt động tham quan, đề cao, đóng góp chi phí cho các hoạt động bảo tồn.

2.3 Các hình thức du lịch văn hóa tại Việt Nam

  • Văn hóa vật thể

Các sản phẩm văn hóa vật thể có thể kể đến như tranh ảnh, nghệ thuật, dụng cụ, văn học… là kết quả của hoạt động sinh hoạt, sáng tạo, thiết kế, tạo ra các tác phẩm và giá trị mang tính hiện hữu, vật chất. Đó là tiền đề cho sự phát triển của loại hình du lịch văn hóa vật thể.

  • Văn hóa phi vật thể

Văn hóa phi vật thể trái ngược với văn hóa vật thể, sẽ bao gồm các giá trị văn hóa về mặt tinh thần. Đó là những thứ vô hình, chúng ta không thể nhìn thấy hay cầm nắm nhưng có thể cảm nhận, cảm thụ, ví như ca dao tục ngữ, các hình thức diễn xướng, các câu chuyện thần thoại, ca hát, làn điệu nghệ thuật…

  • Du lịch văn hóa tâm linh

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa du lịch tâm linh phát triển dựa trên cơ sở khai thác các yếu tố văn hóa tâm linh, đáp ứng nhu cầu tâm linh cho con người. Hiểu một cách đơn giản, du lịch tâm linh gồm các hoạt động du lịch về các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể có gắn với các giá trị về tín ngưỡng, tôn giáo hay các giá trị tinh thần đặc biệt.

1.2.4 Thực trạng du lịch văn hóa tại Việt Nam

Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều quốc gia và rất phù hợp với bối cảnh phát triển của Việt Nam. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia vô cùng tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa. Một số loại hình du lịch văn hóa đã và đang phát triển ở Việt Nam như: du lịch lễ hội, du lịch bảo tàng, du lịch di sản, du lịch ẩm thực,…

Với bề dày lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, nền văn hóa Việt Nam mang đậm bản sắc dân tộc đã phát triển rất nhiều giá trị to lớn. Việt Nam có 54 dân tộc với những phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt, tín ngưỡng khác nhau, đây chính là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa phong phú. Không những thế, Việt Nam còn có hơn 44.000 danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, trong đó hơn 3000 địa danh là di sản cấp quốc gia, hơn 5000 địa danh di sản cấp tỉnh và 7 di sản văn hóa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.

Việt Nam có 117 bảo tàng là nơi lưu trữ, trưng bày và tái hiện chân thực về lịch sử phát triển của đất nước. Nghệ thuật dân gian mang đặc trưng bản sắc dân tộc Việt Nam luôn hấp dẫn khách du lịch từ khắp mọi miền như những câu quan họ dân ca, làn điệu chèo, cải lương, ca trù, các công cụ âm nhạc truyền thống (đàn bầu, đàn cầm, sáo,…),… trong đó đặc biệt nổi bật là nghệ thuật múa rối nước.

Trong đời sống xã hội, Việt Nam có tới 8.000 lễ hội trong đó 90% là lễ hội dân gian và có rất nhiều lễ hội cấp quốc gia. Có thể kể đến một số lễ hội phổ biến như Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (Du lịch Điện Biên Phủ), Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ (Lễ hội Đất Phương Nam), Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận (Con đường Di sản miền Trung), Festival Huế,…

Về tâm linh, từ lịch sử xa xưa Việt Nam có rất nhiều những vị anh hùng dân tộc có công có dân với nước gắn với tín ngưỡng thờ cúng. Và con người Việt theo khá nhiều tôn giáo khác nhau như Thiên chúa giáo, đạo Tin Lành,… và nhiều nhất là Phật giáo chiếm 90%.

Ngành du lịch của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được rất nhiều thành công nhất là khi bắt đầu áp dụng những chính sách mở cửa du lịch. Đặc biệt là về du lịch văn hóa, Việt Nam đã không ngừng phát triển tạo ra thương hiệu du lịch cho quốc gia với những sản phẩm du lịch văn hóa khác biệt.

3.Khái quát chung về bảo tồn và phát triển du lịch

3.1 Bảo tồn và phát huy

3.1.1 Khái niệm

Có nhiều khái niệm, định nghĩa về thuật ngữ “bảo tồn” và “phát huy” nhưng để làm rõ hơn khái niệm về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, ta có thể hiểu như sau: Bảo tồn di sản (heritage preservation) được hiểu như là các nỗ lực nhằm bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của di sản theo dạng thức vốn có của nó. Phát huy di sản (heritage promotion) có nghĩa là những hành động nhằm đưa di sản văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, coi đó như là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội.

        Về quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng trên thế giới vẫn tựu trung 2 quan điểm như sau: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn trên cơ sở kế thừa.

       Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa quan điểm bảo tồn nguyên vẹn, theo Gregory J.Ashworth, thì được phát triển đầu tiên từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Quan điểm bảo tồn nguyện vẹn này được khá nhiều học giả ủng hộ, đặc biệt các nhà bảo tồn, bảo tàng trong lĩnh vực di sản văn hóa. Những người theo quan điểm Bảo tồn nguyên vẹn cho rằng, những sản phẩm của quá khứ, nên được bảo vệ một cách nguyên vẹn, như nó vốn có, cố gắng phục hồi nguyên gốc các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng như cố gắng cách ly di sản khỏi môi trường xã hội đương đại. Họ cho rằng, mỗi di sản chứa đựng những giá trị văn hóa – xã hội nhất định mà không phải lúc nào thế hệ hiện tại có hiểu biết một cách cụ thể để có thể phát huy những giá trị ấy một cách thích hợp. Hơn nữa, những giá trị văn hóa ấy luôn biến đổi theo thời gian do những tác động của xã hội hiện tại và sẽ tạo nên những lớp văn hóa khác không trùng nghĩa với lớp văn hóa mà thế hệ trước chuyển giao cho thế hệ sau, vì thế, có thể làm cho các thế hệ sau nữa không thể truy nguyên được những giá trị di sản đang tồn tại. Chính vì như vậy, những người theo quan điểm này cho rằng, do chúng ta chưa có đủ thông tin, trình độ hiểu biết để có thể lý giải giá trị của các di sản văn hóa, chúng ta nên giữ nguyên trạng những di sản này để khi có điều kiện, các thế hệ tiếp nối có thể xử lý, giải thích và tìm cách kế thừa, phát huy di sản một cách tốt hơn.

       Với quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa thì được các học giả nước ngoài hiện nay quan tâm nhiều hơn và là một xu thế khá phổ biến khi bàn đến di sản. Có thể kể đến như Alfrey, Putnam, Ashworth và P.J. Larkham xem di sản như một ngành công nghiệp và cần phải có cách thức quản lý di sản tương tự với cách thức quản lý của một ngành công nghiệp văn hóa với những logic quản lý đặc biệt, phù hợp với tính đặc thù của các di sản. Hoặc các nhà nghiên cứu Anh, Mỹ như Boniface, Fowler, Prentice,… thì cho rằng không thể không đề cập đến phát triển du lịch trong vấn đề bảo tồn và phát huy di sản. Cách tiếp cận của các nhà khoa học này sống động hơn, quan tâm di sản văn hóa để phát triển du lịch, để khẳng định tính đa dạng trong sáng tạo của con người. Còn các tác giả như Corner và Harvey cũng cho rằng việc quản lý di sản cần đặt dưới một cách tiếp cận toàn cầu hóa. Ngoài ra, các tác giả như Moore và Caulton cũng cho rằng cần quan tâm làm thế nào lưu giữ được các di sản văn hóa thông qua cách tiếp cận mới và phương tiện kỹ thuật mới. Nhìn chung, quan điểm lý thuyết này dựa trên cơ sở mỗi di sản cần phải được thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian và không gian cụ thể. Khi di sản ấy tồn tại ở thời gian và không gian hiện tại, di sản ấy cần phát huy giá trị văn hóa – xã hội phù hợp với xã hội hiện nay và phải loại bỏ đi những gì không phù hợp với xã hội ấy.

        Với quan điểm thứ nhất là đóng gói các sản phẩm văn hóa cần được bảo vệ trong môi trường khép kín để tránh mọi tác động bên ngoài làm phương hại đến chúng. Khuynh hướng này mang lại một số kết quả rất đáng quan tâm. Nhờ các hoạt động bảo tồn đó, trong nhiều năm qua, chúng ta đã lưu giữ được nhiều sắc thái văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, văn hóa nói chung trong đó có văn hóa phi vật thể luôn gắn bó với đời sống, con người, với môi trường xã hội. Do đó, nó luôn biến đổi để phù hợp với mọi thay đổi của cuộc sống. Bởi vậy, bảo tồn theo khuynh hướng này bộc lộ hạn chế là làm khô cứng các sản phẩm văn hóa.

         Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa với quan điểm thứ hai là quan điểm thả nổi. Sản phẩm văn hóa nào có sức sống mãnh liệt, có giá trị, có nền tảng vững chắc do được chắt lọc, chưng cất, được thử thách qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử sẽ có nhiều cơ hội và lợi thế tự khẳng định mình nhiều hơn. Điều đó phụ thuộc vào các tiêu chí và hệ giá trị. Bởi vậy, khi chúng ta sử dụng hệ giá trị hôm nay làm thước đo sự thay đổi các sản phẩm văn hóa truyền thống, khuynh hướng thả nổi sẽ đẩy nhanh quá trình làm biến dạng các tiêu chí và chuẩn mực vốn đã được định hình từ lâu. Những sản phẩm văn hóa truyền thống tuy mang đậm nét đặc thù nhưng khi đặt trong hệ quy chiếu mới nếu không được điều chỉnh sẽ khó có cơ hội tồn tại lâu dài.

         Rõ ràng là cả hai quan điểm trên đều xuất phát từ cách hiểu máy móc, siêu hình, thiếu cái nhìn biện chứng về khái niệm bảo tồn. Chỉ có thể hiểu một cách đầy đủ và đúng nghĩa khi đặt hoạt động bảo tồn trong mối quan hệ với phát huy. Ngoài việc lưu giữ để không mất đi các giá trị văn hóa, bảo tồn còn phải biết lựa chọn trong các hiện tượng đang có nguy cơ bị mất đi, những yếu tố, những khả năng tiềm ẩn để làm cho chúng tồn tại cùng với sự phát triển đi lên của cuộc sống. Mục đích sâu xa của bảo tồn là đưa di sản văn hóa vào cuộc sống để phát huy giá trị của chúng. Quan điểm trên cần phải được nhìn nhận một cách linh hoạt. Nói tóm lại là bảo tồn di sản văn hóa cần phải đi kèm với khai thác, phát huy giá trị của nó trong đời sống. Mặt khác, việc bảo tồn cần phải quan tâm đến những đặc điểm xã hội trong từng thời điểm cụ thể, tức là phải lựa chọn để bảo tồn những gì phù hợp với thời đại. Chỉ có như vậy, hoạt động bảo tồn mới có ý nghĩa và có tính khả thi mà không trở thành lực cản đối với sự phát triển của xã hội.

3.1.2 Quản lý di sản văn hóa

Nội dung quản lý nhà nước về di sản văn hóa được đề cập gồm các nội dung chính là: Xây dựng và ban hành thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Tổ chức, chỉ đạo và quản lý các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về di sản văn hóa; Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; Tổ chức, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra và khen thưởng, kỷ luật trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Quản lý di sản văn hóa phi vật thể bao gồm các tinh hoa đã được công bố toàn quốc hoặc những báu vật nhân văn sống, các nghệ nhân và người biểu diễn ít được công nhận và cuối cùng, người trông coi truyền thống và hình thái tôn giáo.

3.1.3 Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa

Quan điểm này phải được thiết kế dựa trên cơ sở 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đã được xác định rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng .

Nghị quyết đã khẳng định nhiệm vụ bảo tồn di sản văn hóa trong bối cảnh mới ở nước ta. “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.

Qua đó ta thấy, 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển văn hóa của Việt Nam là tương đối thống nhất với các quan điểm về chính sách văn hóa mà nhiều quốc gia khác cũng đang theo đuổi. Đó là: gắn văn hóa với hệ tư tưởng – chính trị; văn hóa thể hiện đặc trưng dân tộc; sản phẩm văn hóa là một loại hàng hóa .

Có thể hiểu, văn hóa luôn gắn bó máu thịt với dân tộc và tư tưởng, chính trị, đồng thời còn được nhìn nhận là loại hàng hóa đặc biệt bởi vậy các quốc gia luôn hướng hoạt động văn hóa vào 3 mục tiêu lớn là: bảo vệ di sản và khuyến khích hoạt động sáng tạo; đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng của tất cả mọi người đối với văn hóa; tạo cơ hội cho tất cả mọi người tham gia vào sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ văn hóa.

Với nhận thức như trên, trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, Bộ VHTTDL đã nghiên cứu và vận dụng sáng tạo 5 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là nhiệm vụ then chốt của chiến lược phát triển văn hóa. Tập trung điều tra toàn diện, nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử – văn hóa và văn hóa phi vật thể; các loại hình nghệ thuật cổ truyền đặc sắc, văn hóa dân gian của từng địa phương, từng vùng văn hóa, từng vùng dân tộc; nghề thủ công truyền thống, lễ hội tiêu biểu, kho tàng Hán Nôm. Kết hợp phải hài hòa việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch bền vững.

Điều tra, sưu tầm, xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tiêu biểu.

Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để bảo quản, giữ gìn lâu dài tài liệu, hiện vật tại các bảo tàng, cơ quan lưu trữ tư liệu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật ở trung ương và địa phương.

Thực hiện các hình thức tôn vinh các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu và cơ chế chính sách để các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy nghề cho các thế hệ”

Như vậy, với tư cách là nhiệm vụ then chốt trong chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, các hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa đã được tiếp cận tổng thể với nhiều hình thức hoạt động đa dạng, có tác dụng bổ trợ lẫn nhau.

1.3.1.4 Đặc trưng của bảo tồn di tích lịch sử – Văn hóa

Bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa – nhân tố quan trọng của phát triển bền vững

Nhìn từ góc độ có hay không được duy trì những công năng vốn có từ ban đầu hoặc trong quá trình tồn tại, người ta chia các di tích làm hai loại: di tích “sống” và di tích “chết”. Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam rất đa dạng, phong phú về loại hình nhưng di tích “chết” không nhiều mà hầu hết là di tích “sống”. Những kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu… những công trình phục vụ dân sinh như nhà ở, cầu, quán… có hàng trăm năm tuổi được coi là di tích nhưng với người dân chúng là nơi cư trú, sinh hoạt cộng đồng, nơi gửi gắm đời sống tinh thần, tâm linh.

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa theo cách nhìn nhận về hình thái tồn tại, di sản văn hóa được chia thành hai loại: di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể (di tích). Tuy có sự phân biệt nhưng hai loại hình này luôn có mối quan hệ hữu cơ và biện chứng, chúng song song tồn tại và có tác động qua lại lẫn nhau. Mỗi một di tích do tiền nhân sáng tạo đều liên quan một nhu cầu hoạt động tinh thần nào đó. Di tích lịch sử văn hóa là sản phẩm vật chất nhưng luôn mang trong mình những yếu tố phi vật chất là thông điệp, sức sáng tạo, ý thức xã hội, đời sống tinh thần, tâm linh của thế hệ trước lưu truyền cho thế hệ sau.

Do vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di tích không những gìn giữ được những sản phẩm vật thể mà còn góp phần làm thăng hoa di sản văn hóa phi vật thể, từ đó cốt cách dân tộc được giữ gìn, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được nuôi dưỡng, lưu truyền – những nhân tố quan trọng không thể thiếu của sự phát triển bền vững. Bảo tồn và phát triển là hai nhân tố quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích (một cách đúng mức) sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực cho phát triển kinh tế, xã hội.

3.1.5 Nâng cao hiệu quả bảo tồn di tích

Ở Việt Nam, đến nay đã có 2.795 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng. Bên cạnh đó là hàng vạn di tích khác trải khắp vùng, miền đất nước và gắn bó chặt chẽ với cuộc sống cộng đồng. Những năm gần đây, bảo tồn di tích nhận được sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước và của toàn xã hội và thật sự tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng được ghi nhận, vẫn tồn tại những hạn chế, bất cập cần khắc phục. Luật Di sản văn hóa (năm 2001), Nghị định 92 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa (năm 2002), Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh (năm 2003) được ban hành là những cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác bảo tồn di tích. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động bảo tồn di tích vẫn là đối tượng điều chỉnh của Nghị định quản lý đầu tư và xây dựng nên thực tế còn nhiều bất cập. Bảo tồn di tích là một lĩnh vực khoa học chuyên ngành với những đặc điểm riêng khác với xây dựng cơ bản thông thường. Chính vì vậy, cần có một cơ chế phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao hiệu quả cho công tác này.

3.2 Phát triển du lịch

3.2.1 Khái niệm phát triển

Thuật ngữ phát triển có nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp cận từ những quan điểm khác nhau, với các quốc gia có nền văn hóa khác nhau, quan điểm phát triển có thể được hiểu khác nhau. Todaro và Smith (2011) nhấn mạnh rằng phát triển có thể được xem như là một quá trình đa chiều liên quan đến những thay đổi lớn trong tăng trưởng kinh tế và thể chế quốc gia, cũng như tạo cơ hội cho tất cả người dân cũng như nguyện vọng cá nhân, và xóa đói giảm nghèo ở khu vực và cả cấp quốc gia”. Báo cáo của The United Nations Development Program (2013) chỉ ra rằng sự phát triển thể hiện bằng cách cung cấp nhiều lựa chọn hơn, tự do hơn cho người dân và họ có cơ hội tham gia vào các hoạt động có ý nghĩa. Từ khái niệm này, áp dụng trong lĩnh vực du lịch, phát triển du lịch sẽ cung cấp nhiều loại hình du lịch, nhiều gói sản phẩm, dịch  vụ để du khách lựa chọn và tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch mà du khách đã chọn cho mình.

3.2.2 Phát triển du lịch

Du lịch có vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế nhưng nó cũng có vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội, môi trường và con người (Harrison, 2015). Việc phát triển du lịch trong một điểm đến phụ thuộc vào cả tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa và các tài nguyên hữu hình, vô hình khác. Sự phát triển không cân đối, tự phát sẽ dẫn đến cạn kiệt các loại tài nguyên, dẫn đến số lượng du khách giảm dần, chất lượng cuộc sống của cư dân cũng giảm sút theo. Xu hướng hiện nay đối với ngành ngành du lịch hướng tới phát triển bền vững, bảo vệ môi trường và bảo vệ đặc điểm văn hóa xã hội của quốc gia. Phát triển du lịch ngoài việc gia tăng cơ hội để du khách được đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các sản phẩm dịch vụ chất lượng từ nguồn lực các bên liên quan đưa vào điểm đến, ngành du lịch còn cần bảo vệ giá trị văn hóa và hệ thống giá trị truyền thống vô cùng quý giá của các cộng đồng cư dân ở địa phương, quốc gia.

3.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch

  • Phát triển cơ sở hạ tầng

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống đường xá, nhà ga, sân bay, bến cảng, đường sắt, hệ thống thông tin viễn thông, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới điện… Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ là đòn bẩy thúc đẩy các hoạt động kinh tế xã hội nói chung và ngành Du lịch nói riêng. Đối với ngành Du lịch, nó là yếu tố tiền đề đảm bảo cho du khách tiếp cận dễ dàng với các điểm du lịch, thỏa mãn được nhu cầu thông tin liên lạc và các nhu cầu khác trong chuyến đi.

Trong các yếu tố hạ tầng, hệ thống giao thông là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển của du lịch vì nó liên quan trực tiếp đến việc: Đảm bảo an toàn, tiện nghi cho khách du lịch, cung cấp dịch vụ vận tải với chi phí ngày càng rẻ, tăng tốc độ vận chuyển, tiết kiệm được thời gian đi lại, kéo dài thời gian ở lại nơi du lịch và đi tận đến cả các nơi xa xôi.

Nếu điều kiện về cơ sở hạ tầng tốt thì đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và thực hiện phát triển bền vững du lịch. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng còn có vai trò thúc đẩy hoạt động phát triển bền vững du lịch dưới góc độ: Hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện cho phép phát triển du lịch ở những vùng sâu, vùng xa; cho phép giảm tải cho các điểm du lịch truyền thống, đồng thời khắc phục tính mùa vụ trong du lịch, phân phối lại thu nhập đến với cư dân địa phương. Đây là những cơ sở quan trọng cho phát triển bền vững trong du lịch.

Rõ ràng, cơ sở hạ tầng và phát triển bền vững du lịch có mối quan hệ mật thiết và hệ thống cơ sở hạ tầng luôn là một căn cứ quan trọng cho công tác xây dựng và thực hiện phát triển bền vững du lịch của địa phương.

  • Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được hiểu là toàn bộ các phương diện vật chất kỹ thuật được huy động tham gia vào việc khai thác các tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và thực hiện các dịch vụ/hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến hành trình của họ. Theo cách hiểu này, chúng bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc bản thân ngành Du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành khác của nền kinh tế quốc dân tham gia vào việc khai thác tiềm năng du lịch như: Hệ thống đường xá, cầu cống, bưu chính viễn thông, điện nước… Điều này cũng khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa du lịch với các ngành khác trong mối liên hệ liên ngành.

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được tạo ra lại là yếu tố quan trọng tác động đến mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách bởi năng lực và tính tiện ích của nó. Có ba yếu tố cấu thành để tạo nên sản phẩm và dịch vụ du lịch thỏa mãn nhu cầu của du khách. Đó là: Tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch, lao động trong du lịch. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng, không thể thiếu. Con người bằng sức lao động của mình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật để khai thác các giá trị của tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ/hàng hoá cung ứng cho du khách. Ngoài yếu tố tài nguyên thì tính đa dạng, phong phú, hiện đại, hấp dẫn của cơ sở vật chất – kỹ thuật cũng tạo nên tính đa dạng, phong phú và hấp dẫn của dịch vụ du lịch. Một quốc gia, một doanh nghiệp muốn phát triển du lịch tốt phải có 1 hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật tốt. Cho nên, trình độ phát triển của cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch là điều kiện, đồng thời cũng là sự thể hiện trình độ phát triển du lịch của một địa phương hay một đất nước.

  • Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch, theo Luật Du lịch Việt Nam (2017): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa”.

Tài nguyên du lịch là điều kiện, là yếu tố đầu vào quan trọng của hoạt động du lịch, đồng thời cũng là yếu tố tác động đến phát triển bền vững du lịch. Số lượng, chủng loại, cơ cấu, mức độ đa dạng, vị trí và khả năng khai thác có tác động trực tiếp và rất lớn đến việc xác định định hướng, mục tiêu phát triển, lựa chọn sản phẩm du lịch đặc trưng, xác định các giải pháp phát triển du lịch; đến hiệu quả kinh tế – xã hội và khả năng phát triển của du lịch theo hướng tương ứng.

Nguồn tài nguyên là yếu tố cơ bản, là một nguồn lực quan trọng để tạo ra sản phẩm du lịch. Quy mô và khả năng phát triển phụ thuộc vào số lượng chất lượng, sự kết hợp các loại tài nguyên thiên nhiên. Quy mô càng lớn, chất lượng của chúng càng cao thì càng có điều kiện trở thành điểm hấp dẫn, thu hút du khách, giúp mở rộng và phát triển thị trường du lịch. Hoạt động du lịch phải dựa trên các việc khai thác và sử dụng tài nguyên. Từ những nội dung trên, ta có thể nhận định “Tài nguyên du lịch” là một nhân tố trong phát triển bền vững du lịch.

  • Phát triển đào tạo nguồn nhân lực

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa du lịch là ngành đòi hỏi nguồn lao động lớn với nhiều loại trình độ do tính chất đặc điểm của ngành có mức độ cơ giới hóa thấp và đối tượng phục vụ là khách hàng với nhu cầu rất đa dạng. Trong ngành Du lịch, phần lớn lao động tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và họ tham gia thực hiện các công việc nhằm đạt được những mục tiêu của đơn vị. Chất lượng dịch vụ được cung cấp cho khách hàng không chỉ phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng tay nghề của người lao động mà còn phụ thuộc vào thái độ làm việc của họ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp du lịch muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, cần phải nhận thức rõ hơn vai trò đội ngũ lao động, phải có được một đội ngũ lao động có kiến thức sâu rộng, giỏi tay nghề và có đạo đức nghề nghiệp tốt.

Thực tế cho thấy, lực lượng lao động ngành Du lịch trong những năm qua tăng theo sự phát triển của ngành nhưng vẫn chưa đảm bảo cho phát triển du lịch một cách bền vững. Nhiều bộ phận vẫn còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, đặc biệt là trình độ lao động sử dụng được ngoại ngữ khá thấp; ngoài ra tư duy và kỹ năng làm du lịch của người lao động còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp… Do đó, du lịch nếu muốn phát triển bền vững thì việc phát triển nguồn nhân lực là nhân tố vô cùng quan trọng.

  • Trình độ tổ chức quản lí ngành Du lịch

Cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện chức năng quy hoạch ngành Du lịch để từ đó có sự đầu tư theo lộ trình, đảm bảo đầu tư hiệu quả, phân bổ nguồn lực hợp lý cho từng giai đoạn, lựa chọn phát triển đúng hướng các dự án đầu tư. Chú trọng đến công tác bảo tồn, duy tu các công trình văn hóa; ban hành các quy định, cơ chế chính sách khuyến khích sự tham gia đầu tư của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp vào hoạt động phát triển du lịch. Cần có chính sách ưu tiên đối với những dự án đầu tư du lịch có các giải pháp khả thi nhằm giảm thiểu của tác động du lịch đến môi trường; tạo cơ sở hạ tầng đô thị, giao thông, thông tin và dịch vụ tài chính thuận lợi, hiện đại đáp ứng ngày càng cao cho du khách, đây cũng là điều kiện hỗ trợ cần thiết cho việc thu hút đầu tư phát triển du lịch; xã hội hóa trong việc tạo sản phẩm du lịch nhằm mang lại chất lượng, giá cả đáp ứng nhu cầu thị trường, tạo sản phẩm du lịch độc đáo để tăng lợi thế cạnh tranh trong du lịch; tập trung vào công tác thông tin, tuyên truyền.

Các cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò cân đối mọi nguồn lực để hướng sự phát triển của du lịch đạt đến các mục tiêu bền vững. Do đó, trình độ tổ chức quản lí ngành du lịch là nhân tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển bền vững du lịch, với một đường lối chính sách nhất định có thể kìm hãm hay thúc đẩy du lịch phát triển.

  • Chất lượng dịch vụ du lịch

Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hóa chất lượng dịch vụ du lịch là mức phù hợp của dịch vụ từ các nhà cung cấp du lịch thỏa mãn các yêu cầu của du khách. Đó chính là sự nhận thức của khách hàng về chất lượng dịch vụ của một hãng cụ thể nào đó dựa trên sự so sánh thành tích của hãng đó trong việc cung cấp dịch vụ với sự mong đợi chung của khách hàng đối với tất cả các hãng khác trong cùng ngành Dịch vụ lữ hành.

Thực tế cho thấy, chất lượng dịch vụ du lịch là một trong những yếu tố quan trọng để giúp du lịch phát triển bền vững, là yếu tố then chốt tạo nên uy tín, thương hiệu không chỉ cho các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch mà còn cho cả ngành Du lịch của các quốc gia cũng như các địa phương. Việc chuẩn hóa các dịch vụ du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ không chỉ giúp các doanh nghiệp đảm bảo chất lượng phục vụ mà nhằm giới thiệu đến du khách các điểm, nhà cung cấp dịch vụ, hàng hóa chất lượng cao để họ an tâm mua sắm. Từ đó, góp phần làm tăng thời gian lưu trú tham quan, thúc đẩy chi tiêu, tăng nguồn thu ngoại tệ từ du lịch. Xa hơn, nâng cao chất lượng dịch vụ sẽ quảng bá được hình ảnh du lịch địa phương, quốc gia và trực tiếp nâng cao sự hài lòng của khách du lịch và năng lực cạnh tranh cho các cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch, từ đó giúp du lịch phát triển bền vững.

Bài viết trên đây là tổng hợp toàn bộ Cơ Sở Lý Luận Về Bảo Tồn Và Phát Triển Du Lịch Văn Hoá mà mình đã chọn lọc, liệt kê, và gửi gấm đến cho các bạn một số kiến thức hoàn toàn hữu ích để giúp các bạn có thêm thông tin để làm bài luận văn của mình. Nếu như nguồn tài liệu trên đây chưa đủ làm bạn hài lòng hoặc bạn chưa có thời gian để thực hiện một bài luận văn hoàn chỉnh thì đừng lo lắng hãy tìm đến ngay dịch vụ nhận làm thuê luận văn qua zalo/telegram : 0934.536.149 để được tư vấn báo giá làm bài luận văn và hỗ trợ cho các bạn từ A đến Z nhá.

DOWNLOAD MIỄN PHÍ

Contact Me on Zalo