Tiểu luận: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Rate this post

Chia sẻ đến các bạn bài mẫu Tiểu luận: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đạt 9 điểm. Tham khảo, chọn lọc từ giáo trình, giáo án và nhiều tài liệu mẫu liên quan giúp cho bài Tiểu luận: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân này. Lời văn, từ ngữ, bố cục,… đều được giáo viên đánh giá rất cao vì vậy các bạn nên tham khảo luôn những phần này nhé! 

Lưu ý, khi các bạn làm bài gặp bất kỳ khó khăn hay cần thuê người viết hộ thì liên hệ trực tiếp với AD qua SĐT/Zalo: 0934 536 149


1. Đặt vấn đề về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Hiến pháp năm 2013 gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng chế định về Quyền con người, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của Công dân được ghi nhận tại Chương II, từ điều 14 đến Điều 49, gồm 36/120 Điều với nhiều điểm mới và hàm chứa các nội dung quan trọng. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã khái quát: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được đề cao, đưa lên vị trí quan trọng hàng đầu trong Hiến pháp – Chương II. Đó vừa là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh – Trưởng ban soạn thảo; vừa thể hiện nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. ( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

Với mong muốn tìm hiểu một cách tổng quát về vấn đề trên, em xin chọn đề tài bài tập: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” làm chủ đề bài tập của mình. Do những hạn chế khó tránh khỏi về tri thức và phương pháp nghiên cứu, tiểu luận sẽ còn tồn tại những sai sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để hoàn thiện hơn phương pháp học môn Luật Hiến pháp. Em xin chân thành cảm ơn thầy, cô.

2. Giải quyết vấn đề Quyền con người, quyền và nghĩa vụ

1. Cơ sở lý luận chung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

1.1. Quyền con người

1.1.1. Khái niệm

Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm cùng loại, đồng dạng nhưng không đồng nhất mà có những giá trị xã hội khác nhau. Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân như ở Điều 50 Hiến pháp năm 1992 khi quy định quyền con người “…thể hiện ở quyền công dân”. Hiến pháp năm 2013 đã sử dụng cả 2 thuật ngữ “quyền con người” và “quyền công dân” với những nội dung được xác định rõ ràng, thể hiện các quyền và tự do hiến định để bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Quan điểm khẳng định mạnh mẽ giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là một quan điểm được đồng thuận cao trong lần thảo luận để ban hành Hiến pháp.

Quyền con người (Human rights, Droits de L Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kì chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

1.1.2. Phân loại

Các quyền con người được thế giới thừa nhận, bảo vệ và được tuyên bố trong nhiều văn kiện pháp lí quốc tế mà đặc biệt là trong ba văn kiện quan trọng nhất được coi là Bộ luật quốc tế về quyền con người là Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (ICESCR). Tại 3 văn kiện quan trọng trên, có thể chia quyền con người thành 2 nhóm: Các quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội.( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

1.1.3. Các đặc trưng cơ bản của quyền con người

  • Tính phổ biến của quyền con người (universal rights)
  • Tính không thể chuyển nhượng (inalienable rights)
  • Tính không thể phân chia (indivisible rights)
  • Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent rights)

1.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Trong lịch sử lập hiến của một quốc gia, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế định quan trọng, nó thể hiện bản chất dân chủ, tiến bộ của nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với công dân và với các cá nhân trong xã hội.

1.2.1. Khái niệm

Khái niệm công dân trước hết biểu hiện tính chất đặc biệt của mối quan hệ pháp lí giữa Nhà nước đối với một số người nhất định. Khái niệm công dân hẹp hơn khái niệm cá nhân bởi cá nhân bao gồm những người là công dân và cả những người không là công dân. Công dân là sự xác định của một thể nhân về mặt pháp lí thuộc về một nhà nước nhất định. Nhờ sự xác định này con người được hưởng chủ quyền của nhà nước và được nhà nước bảo hộ quyền lợi khi ở trong nước cũng như ở nước ngoài; đồng thời cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định đối với nhà nước. Theo Khoản 1 Điều 17 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013, công dân nước CHXHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là các quyền và nghĩa vụ được xác định trong Hiến pháp trên các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, là cơ sở để thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể khác của công dân và cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không những được quy định trong Hiến pháp – đạo luật cơ bản của Nhà nước mà còn được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật khác, tạo nên quy chế pháp lý của công dân.

1.2.2. Phân loại

Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có thể được phân chia thành ba nhóm: các quyền dân sự (tự do cá nhân), chính trị; các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; các nghĩa vụ cơ bản của công dân. Cơ sở phân định các quyền công dân chia thành hai nhóm: các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa là do thời gian hình thành và tính chất của hai nhóm quyền này có nhiều điểm khác nhau. Các quyền dân sự, chính trị của công dân thường xuất hiện sớm hơn các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Phần lớn thường được xác lập khi thành lập nhà nước dân chủ, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội phần lớn được thiết lập muộn hơn phụ thuộc nhiều vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

  • Quyền cơ bản của công dân thường được xuất phát từ các quyền tự do thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và là các quyền được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận.
  • Nghĩa vụ cơ bản của công dân là các nghĩa vụ tối thiểu mà công dân phải thực hiện đối với nhà nước và là tiền đề để đảm bảo cho các quyền cơ bản của công dân được thực hiện.
  • Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thường được quy định trong hiến pháp – văn bản pháp luật có hiệu lực pháp luật cao nhất.
  • Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận trong hiến pháp là cơ sở chủ yếu để xác định địa vị pháp lý của công dân, là cơ sở đầu tiên cho mọi quyền và nghĩa vụ khác của công dân được các ngành luật trong hệ thống pháp luật nước ta cũng như nhiều nước khác ghi nhận.
  • Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là nguồn gốc phát sinh các quyền và nghĩa vụ khác của công dân.
  • Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thể hiện tính chất dân chủ, nhân văn và tiến bộ của nhà nước.

2. Những nguyên tắc Hiến pháp của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Theo Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta xây dựng chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:

2.1. Nguyên tắc các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (khoản 1 Điều 14)

Trong khoa học pháp lí, các quyền con người được hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là các quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại đến. Nhà nước ta từ khi thành lập đến nay luôn luôn tôn trọng các quyền con người, luôn luôn coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng pháp luật nhà nước. Với Hiến pháp năm 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, nguyên tắc tôn trọng các quyền con người được thể chế hóa trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Đến Hiến pháp năm 2013, chế định “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” được thay đổi thành “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Đây là bước phát triển quan trọng trong tư duy pháp lí và nhận thức về quyền con người ở Việt Nam.

2.2. Nguyên tắc quyền con người, quyền công dân không tác rời nghĩa vụ (khoản 1 Điều 15, Điều 43, Điều 47, Điều 48)

Quyền và nghĩa vụ là hai mặt của quyền con người và công dân. Con người, công dân muốn được đảm bảo các quyền thì phải thực hiện các nghĩa vụ. Gánh vác, thực hiện nghĩa vụ là điều kiện đảm bảo cho các quyền con người và công dân được thực hiện. Trong xã hội chúng ta, không thể có một số người nào đó chỉ có hưởng quyền mà không gánh vác nghĩa vụ. Ngược lại, cũng không có một tầng lớp nào trong xã hội luôn phải thực hiện nghĩa vụ mà không được hưởng quyền lợi. Quyền lợi và nghĩa vụ luôn phải đi đôi với nhau.

Nhà nước đảm bảo cho con người và công dân những quyền lợi hợp pháp nhưng mặt khác cũng đòi hỏi mọi người, mọi công dân phải thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình.

THAM KHẢO THÊM ⇒ DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN 

2.3. Nguyên tắc mọi người, mọi công dân bình đẳng trước pháp luật (Điều 16, Điều 26)

Nguyên tắc mọi người, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của chế định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Chủ nghĩa Mác – Leenin quan niệm rằng bản chất của bình đẳng thể hiện ở sự công nhận giá trị bình đẳng của tất cả mọi người trong các lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật. Xây dựng một xã hội hưng thịnh và không có giai cấp đối kháng đó chính là cơ sở kinh tế, xã hội bảo đảm cho quyền bình đẳng được thể hiện một các đầy đủ vầ hoàn thiện. Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ được Hiến pháp năm 2013 quy định một cách toàn diện và đầy đủ.

2.4. Nguyên tắc mọi người, mọi công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội (khoản 3 Điều 15, Điều 43, Điều 48)

Bên cạnh việc đảm bảo các quyền con người, quyền công dân, Hiến pháp xác định trách nhiệm của mọi người, mọi công dân thực hiện một số nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Theo khoản 3 Điều 15 Hiến pháp năm 2013, công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Theo các điều 43, 47, 48 Hiến pháp năm 2013, mọi người có nghĩa vụ bảo vệ môi trường, nghĩa vụ nộp thuế theo luật định, nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

2.5. Nguyên tắc việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (khoản 4 Điều 15)

Sự xác lập nguyên tắc việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác là hợp lí, nguyên tắc này nhằm ngan ngừa sự lạm dụng của các quyền con người và công dân làm thiệt hại lợi ích quốc gia, dân tộc hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

2.6. Nguyên tắc quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng (khoản 2 Điều 14)

Nguyên tắc trên được đặt ra nhằm loại trừ khả năng của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương có thể bằng các loại văn bản quy phạm pháp luật dưới luật làm vô hiệu hóa hoặc hạn chế việc thực hiện các quyền con người và công dân.

3. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013

Sự đấu tranh bảo vệ, giải phóng loài người thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, đi đến xây dựng xã hội dân sự, thực sự dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu hàng đầu của hầu hết các dân tộc. Chính vì điều đó, quyền con người, quyền công dân là yếu tố quan trọng trong mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội và quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản nhất trong mọi hiến pháp.

3.1. Quyền con người theo Hiến pháp năm 2013

Hiến pháp năm 2013 đã chuyển chương quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ “vị trí” Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên “vị trí” Chương II (Hiến pháp năm 2014), tăng hai điều, từ ba mươi tư điều (từ Điều 49 đến Điều 82 – Hiến pháp năm 1992) lên ba mươi sáu điều (từ Điều 14 đến điều 49 – Hiến pháp năm 2013), tăng mười tám điều so với Hiến pháp năm 1946, tăng mười lăm điều so với Hiến pháp năm 1959 và tăng bảy điều so với Hiến pháp năm 1980. Trong đó, có năm điều mới (là những điều: Điều 19, Điều 34, Điều 41, Điều 42, Điều 43), sửa đổi, bổ sung 28 điều (là những điều: từ Điều 14 đến Điều 18, Điều 20 đến Điều 33, Điều 35 đến Điều 40, Điều 45, Điều 47, Điều 48), giữ nguyên ba điều (là những điều: Điều 44, Điều 46, Điều 49), trong đó có những nội dung cực kỳ quan trọng cụ thể như sau:( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

3.1.1. Các quyền con người về dân sự, chính trị theo Hiến pháp năm 2013

Khác với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã thay thế thuật ngữ “mọi công dân” bằng thuật ngữ “mọi người”. Cụ thể:

Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật (khoản 1 Điều 16); Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội (khoản 2 Điều 16); Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam (khoản 1 Điều 18); Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khuyến khích và tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. (khoản 2 Điều 18); Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. (Điều 19); Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. (khoản 1 Điều 20); Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định. (khoản 2 Điều 20); Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm. (khoản 3 Điều 20). Ngoài ra là các quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 21; khoản 2 Điều 22; Điều 24; Điều 30; khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 31.

Các quyền con người về dân sự, chính trị trên quy định trong Hiến pháp năm 2013 tương ứng với các quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.

3.1.2. Các quyền con người về kinh tế, xã hội và văn hóa theo Hiến pháp năm 2013

Bên cạnh các quyền dân sự, chính trị, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa tại các quy định:  Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác (khoản 1 Điều 32); Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ (khoản 2 Điều 32); Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường (khoản 3 Điều 32); Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33);  Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi (khoản 2 Điều 35); Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu (khoản 3 Điều 35); Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em (Điều 36); Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (khoản 1 Điều 37); Thanh niên được Nhà nước, gia đình và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân; đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc (khoản 2 Điều 37); Người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng, chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (khoản 3 Điều 37). Và khoản 1 Điều 38, Điều 40, Điều 41, Điều 43, một số quyền con người là các quyền mang tính nhân đạo cũng được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư trú” (Điều 49).

3.1.3. Nghĩa vụ của con người

Với Hiến pháp năm 2013, bên cạnh việc quy định các quyền con người trong 21 điều luật, Hiến pháp dành ra 4 điều quy định về nghĩa vụ của con người. Đó là các nghĩa vụ: Nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43): Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại. (khoản 3 Điều 63); Nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47); Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 46, 48)( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

3.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013

3.2.1. Các quyền về chính trị, dân sự

Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước (khoản 1 Điều 28). Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân (khoản 2 Điều 28). Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội là một trong những quyền chính trị quan trọng nhất của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền làm chủ, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định (Điều 27). Đây là quyền chính trị cực kì quan trọng của công dân. Nhờ quyền bầu cử mà công dân có thể lựa chọn những người ưu tú nhất, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, giải quyết các vấn đề quan trọng nhất của đất nước.

Một trong những quyền chính trị quan trọng mà Hiến pháp xác lập cho con người và công dân Việt Nam là quyền khiếu nại, tố cáo tại Điều 30. Về cơ bản Điều 30 là sự ghi nhận lại Điều 74 Hiến pháp năm 1992 bằng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất đảm bảo cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và buộc các cơ quan, nhà chức trách xem xét, giải quyết kịp thời.

Bên cạnh đó là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (Điều 25), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 24), quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 20), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 22), quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 21), quyền tự do đi lại và cư trú (Điều 23).

3.2.2. Các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội

Quyền làm việc (Điều 35) là một trong những quyền quan trọng nhất của công dân trong lĩnh vực các quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội. Ở Hiến pháp năm 1992, đây là quyền và nghĩa vụ của công dân, tuy nhiên đến Hiến pháp năm 2013, đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ.

Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm (Điều 33). Hiến pháp năm 1992 quy định quyền tự do kinh doanh là quyền của công dân, còn Hiến pháp năm 2013 có bước phát triển mới khi quy định quyền tự do kinh doanh không những là quyền của công dân mà là quyền của con người.

Quyền học tập của công dân (Điều 39). Học tập vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rằng, học tập là quyền của mỗi công dân đồng thời là bổn phận của mỗi người. Các bản Hiến pháp nước ta trong lịch sử bao giờ cũng ghi nhận quyền học tập, coi đó là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe (Điều 38), quyền này không chỉ dành cho công dân Việt Nam mà là quyền dành cho mọi người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.

Ngoài các quyền trên, Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận các quyền khác của công dân như ưuyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22), quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới (Điều 26), quyền được bảo hộ về hôn nhân và gia đình (Điều 36), quyền được đảm bảo an sinh xã hội (Điều 34), quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42).( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

3.2.3. Các nghĩa vụ cơ bản của công dân

Nghĩa vụ cơ bản của công dân tại Hiến pháp năm 2013 kế thừa những quy định của các Hiến pháp trước đây đồng thời hoàn thiện thêm một bước. Hiến pháp năm 2013 quy định công dân Việt Nam có các nghĩa vụ sau: Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc (Điều 44), nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc (khoản 1 Điều 45), nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân (khoản 2 Điều 45), nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 46), nghĩa vụ chấp hành các quy tắc sinh hoạt công cộng (Điều 46), nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43), Nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47), nghĩa vụ học tập (Điều 39), Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam (Điều 46).

Với sự ra đời của Hiến pháp năm 2013, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam đã tiến một bước dài trên con đường phát triển và hoàn thiện.

3.3. Thực tiễn thực thi quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Thực hiện công cuộc đổi mới, từ năm 1986 đến nay, Việt Nam có bước phát triển ấn tượng về kinh tế – xã hội, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đổi mới kinh tế đặt ra nhu cầu công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, đồng thời, tác động đến quyền con người trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định bản chất quyền lực của Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân… Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” (Điều 1, Điều 2, Điều 3 Hiến pháp năm 2013).

Trong hợp tác quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền, Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người, như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế – xã hội và văn hóa, ký ngày 24-9-1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18-12-1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày 19-3-1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20-2-1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22-10-2007… Những công ước này đều được luật hóa trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việt Nam cũng tích cực tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ, Ô-xtrây-li-a, Thụy Sỹ và Liên minh Châu Âu (EU)… nhằm trao đổi quan điểm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, hướng tới nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi quốc gia. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác ban hành. So với nhiều nước trong khu vực và các nước phát triển, Việt Nam không thua kém về số lượng là thành viên các công ước quốc tế về quyền con người (1). Tính đến năm 2021, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, Việt Nam cam kết thực hiện và coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 được xem là đỉnh cao trong hoạt động lập hiến về bảo vệ quyền con người ở Việt Nam, khẳng định sự nhất quán về nội dung quyền con người, quyền công dân trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992; đồng thời, bổ sung nhận thức mới, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng về quyền con người 

Việc giáo dục, nâng cao nhận thức pháp luật về quyền con người cho các tầng lớp nhân dân được Việt Nam đặc biệt chú trọng. Nhà nước thực hiện đa dạng hóa các hình thức giáo dục phù hợp với mọi đối tượng trong xã hội. Hiện nay, các địa phương trên cả nước đang xúc tiến đẩy mạnh hoạt động giáo dục quyền con người, quyền công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng các mục tiêu, nội dung và lộ trình được quy định trong Quyết định số 1309/QĐ-TTg, ngày 5-9-2017, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân”; thực hiện liên kết trong giáo dục, đào tạo về quyền con người, quyền công dân giữa hệ thống trường chính trị, hành chính, các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu…

Trong năm 2020 và 7 tháng đầu năm 2021, trong khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành trên thế giới và ở Việt Nam, hàng loạt chính sách an sinh xã hội được Chính phủ Việt Nam ban hành nhằm bảo đảm ổn định cuộc sống tối thiểu cho người dân, đặc biệt là người nghèo. Gói an sinh xã hội lần thứ nhất đã được triển khai có quy mô 62.000 tỷ đồng và hiện nay đang thực hiện gói an sinh xã hội lần thứ hai với tổng trị giá 26.000 tỷ đồng là những giải pháp cấp bách, kịp thời, nhằm giảm tối đa tác động của đại dịch Covid-19 đối với quyền sống, quyền được chăm sóc y tế và mưu sinh của người dân. Trong hoàn cảnh khó khăn của dịch bệnh và thiên tai, những chính sách hỗ trợ trực tiếp, kịp thời đối với người dân là nền tảng để bảo vệ các quyền con người, đồng thời cho thấy nỗ lực và quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ, bảo đảm, thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam.( Tiểu luận Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân  )

Bất chấp những nỗ lực và thành tựu đạt được trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về quyền con người của Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận, bịa đặt, công kích Nhà nước Việt Nam “vi phạm các quyền con người , quyền công dân”

4. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế vẫn còn đang đặt ra nhiều việc cần làm, nhiều vấn đề cần tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo các cấp trong thời gian tới nhằm phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và thúc đẩy ngày càng tốt hơn quyền con người, quyền công dân nhằm góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Một là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân vào cuộc sống một cách hiệu quả, thiết thực, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy quyền con người trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương.

THAM KHẢO THÊM ⇒ TRỌN BỘ MẪU TIỂU LUẬN ĐIỂM CAO

Hai là, đổi mới tư duy, chủ động mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quyền con người, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm quyền con người của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận; chủ động, kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc về quyền con người ở nước ta.

Ba là, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế.

Bốn là, trước các luận điệu xuyên tạc, phương thức, thủ đoạn, mục tiêu chống phá, vu cáo về nhân quyền ở Việt Nam, chúng ta cần xem xét, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện âm mưu, thủ đoạn và xác định rõ bản chất của các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Năm là, kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, đảm bảo yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở nước ta. 

Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp, đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Bên cạnh đó, mỗi người dân cần có ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, tham gia phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc về những thành tựu, những kết quả mà chúng ta đã đạt được trong lĩnh vực bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong suốt hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam. 

3. Phần kết luận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng, bảo vệ và thực thi thông qua việc ghi nhận nội dung quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và nhân dân Việt Nam về sự quan tâm có tiếp thu, kế thừa những quan điểm, giá trị tiến bộ của truyền thống dân tộc, của thế giới, cùng những kinh nghiệm lập hiến, lập pháp của các nước tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội nước nhà.


Thời gian gấp rút AD chỉ chia sẻ đến các bạn bài mẫu Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân này, tuy nhiên trên Trangluanvan đều được cập nhật tài liệu liên tục mỗi ngày chính vì vậy các bạn lưu trang để có nhiều tài liệu hơn nhé!

Contact Me on Zalo