Tiểu luận: Nhập môn ngành Quản lý nhà nước, 9 điểm.

Rate this post

Bài viết này AD sẽ chia sẻ cho các bạn bài mẫu Tiểu luận: Nhập môn ngành Quản lý nhà nước đạt điểm 9 mới đây. Đây là bài mẫu được giáo viên đánh giá cao, điểm cao xứng đáng để các bạn tham khảo vận dụng ngay vào bài làm của mình. Trên Trangluanvan còn rất nhiều bài tương tự như Tiểu luận: Nhập môn ngành Quản lý nhà nước bổ ích, được cập nhật liên tục theo thời gian, các bạn tìm và tải về miễn phí nhé.

Trong quá trình làm việc nếu các bạn gặp khó khăn hay có nhu cầu muốn thuê người viết thì liên hệ trực tiếp với AD qua: 0934 536 149


 

1. Đặt vấn đề về đề tài Nhập môn ngành Quản lý nhà nước

Ngày nay, khi kinh tế thị trường mở rộng, mang tính quốc tế hóa cao và cạnh tranh giữa các nước trong khu vực và trên thế giới gia tăng. Vấn đề này đặt ra những yêu cầu mới về thể chế quản lý, đặc biệt là quản lý nhà nước, tổ chức bộ máy và chất lượng đội ngũ công chức. Quản lý nhà nước, năng lực quản lý nhà nước quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một quốc gia, dân tộc.

Hiện nay, bên cạnh việc phát triển nền kinh tế ngày càng vững mạnh thì Việt Nam đã ra sức áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước để cho cuộc sống nhân dân được bình ổn, nhà nước phát triển, cụ thể như nhà nước ta đã nâng cao các chất lượng, công tác quản lý, ban hành những văn bản pháp luật mang tính thống nhất và phù hợp. Ngoài ra, sắp xếp và phân chia lại bộ máy nhà nước, giao các quyền hạn cụ thể cho các quản lý, thực hiện thống nhất quy trình quản lý nhà nước để nâng cao tính chặt chẽ. Tuy nhiên, trên thực tế, ngành quản lý nhà nước nói chung trong các lĩnh vực vẫn còn nhiều lỗ hổng, chưa được hoàn thiện, còn nhiều vấn đề như trình độ và trách nhiệm làm việc của một số cán bộ còn hạn chế, các kỷ luật vẫn chưa thực hiện nghiêm túc, hiệu quả làm việc chưa cao… Do đó, công tác nâng cao chất lượng ngành quản lý nhà nước là cần thiết. Và việc đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành quản lý nhà nước được coi là nền móng cho công tác nâng cao chất lượng.

THAM KHẢO THÊM ⇒ DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN 

 Tại Việt Nam, chỉ có một số ít trường Đại học có đào tạo chuyên ngành này, trường đại học Thủ Dầu Một là một trong số đó. Theo Thạc sĩ Lê Văn Gấm – Phó giám đốc chương trình Quản lý nhà nước, Khoa Khoa học quản lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một sau khi hoàn thành phần học kiến thức cơ bản về Quản lý nhà nước, tất cả sinh viên theo học ngành Quản lý nhà nước tại trường đều trải qua hai giai đoạn đó là cơ bản và chuyên ngành. Trong giai đoạn 1, tất cả sinh viên ngành Quản lý nhà nước (gồm cả 3 chuyên ngành: Quản trị nhân sự, Quản trị địa phương, Chính sách công) đều được tham gia vận dụng kiến thức cơ bản về khoa học xã hội và khoa học liên ngành để nhận biết và giải thích được các vấn đề cơ bản liên quan đến pháp luật, quản lý nhà nước. Và môn “Nhập môn ngành Quản lý nhà nước” chính là một trong những môn học cơ bản của ngành quản lý nhà nước, là tiền đề cho sinh viên bước vào chương trình xây dựng khối kiến thức chung về Quản lý nhà nước và định hướng khối lượng kiến thức chuyên ngành giai đoạn sau này. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Quản lý nhà nước và môn học, nên em thực hiện đề tài “Nhập môn ngành Quản lý nhà nướcnhằm tìm hiểu rõ hơn các vấn đề liên quan đến môn học và đồng thời củng cố kiến thức cơ bản cho bản thân.

2. Nhập môn ngành Quản lý nhà nước: Quản lý vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật

Quản lý là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên (hoặc tình nguyện viên) để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Mọi lĩnh vực trong xã hội đều cần có quản lý, vì vậy có thể nói quản lý vừa là một nghề, vừa là một nghệ thuật.

Quản lý là một nghề nghiệp với bộ máy là hệ thống tổ chức bao gồm nhiều người, nhiều cơ quan, nhiều bộ phận có những chức năng quyền hạn khác nhau nhằm đảm bảo tổ chức và quản lý có hiệu quả các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Những người làm việc trong các cơ quan đó đều phải được qua đào tạo như một nghề nghiệp để có đủ tri thức, kỹ năng năng lực làm công tác quản lý các lĩnh vực đó.

Quản lý là một nghệ thuật: Mặc dù người lãnh đạo quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp khoa học trong hoạt động lãnh đạo quản lý nhưng không có nghĩa là làm theo một cách cứng nhắc, máy móc mà phải biết xử lí các tình huống quản lý linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo. Bởi vì, đối tượng của hoạt động lãnh đạo quản lý là con người với những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, và luôn xuất hiện những tình huống Ị đột xuất không thể lường trước được trong hoạt đông của người lãnh đạo quản lý. Vì vậy, nhà quản lý không thể áp dụng các nguyên tắc quản lý đối với mọi đối tượng và mọi hoàn cảnh. Ớ góc độ này, hoạt động quản lý là một nghệ thuật.

Nghệ thuật là kỹ năng, kỹ xảo, bí quyết, cái “mẹo” của quản lý. Nếu khoa học là sự hiểu biết kiến thức có hệ thống thì nghệ thuật là sự tinh lọc kiến thức để vận dụng phù hợp trong từng lĩnh vực, trong từng tình huống. Ví dụ:

– Trong nghệ thuật sử dụng người: trước hết người quản lý phải hiểu đặc điểm tâm lí, năng lực thực tế của con người, từ đó sử dụng họ vào việc gì, lĩnh vực gì, ở cấp bậc nào là phù hợp nhất; có như vậy mới phát huy hết khả năng và sự cống hiển nhiều nhất của mỗi cá nhân cho tập thể.

– Nghệ thuật giáo dục con người: Giáo dục một con người có thể thông qua nhiều hình thức: khen – chê, thuyết phục, tự phê bình và phê bình, khen thưởng và kỷ luật đều đòi hỏi ở tính nghệ thuật rất cao. Áp dụng hình thức, biện pháp giáo dục không phù hợp chẳng những giúp cho người ta tiến bộ hơn mà ngược lại làm phản tác dụng, tăng thêm tính tiêu cực trong tư tưởng và hành động.

– Nghệ thuật giao tiếp, đàm phán trong kinh doanh: Cũng đòi hỏi tính nghệ thuật rất cao. Trong thực tế không phải người nào cũng có khả năng này, cùng một việc như nhau đối với người này đàm phán thành công còn người khác thì thất bại.

– Nghệ thuật ra quyết định quản lý: Quyết định quản lý là một thông điệp biểu hiện ý chí của nhà quản lý buộc đối tượng phải thi hành được diễn đạt bằng nhiều hình thức như: văn bản chữ viết, lời nói, hành động, … Ngoài đặc điểm chung của quyết định quản lý mang tính mệnh lệnh, cưỡng chế ra thì mỗi hình thức của quyết định lại có những đặc điểm riêng, chẳng hạn như quyết định bằng lời không mang tính bài bản, khuôn mẫu như quyết định bằng văn bản chữ viết nhưng lại đòi hỏi ở tính sáng tạo, thích nghi và tính thuyết phục hơn.

Ngoài ra còn rất nhiều tình huống thực tiễn khác đòi hỏi ở người quản lý không những biết vận dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học hiện có vào hoàn cảnh cụ thể của mình mà còn tích lũy vốn kinh nghiệm của bản thân, của người khác để nâng chúng lên thành nghệ thuật – tức biến nó thành cái riêng của mình.

3. Khái niệm quản lý nhà nước 

Cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, khái niệm quản lý nhà nước cũng đã được hình thành. Khái niệm: “Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội”.

Theo nghĩa rộng, 3 chức năng cơ bản của Quản lý nhà nước, đó là: (1) chức năng lập pháp do cơ quan lập pháp thực hiện; (2) chức năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống hành chính nhà nước đảm nhiệm; (3) chức năng tư pháp do cơ quan tư pháp thực hiện.

Tuy vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp, Quản lý nhà nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật. Theo đó, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quản lý được giới hạn trong các cơ quan hành pháp, đó là Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp; hệ thống các cơ quan: quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nước. Nếu tiếp cận khái niệm Quản lý nhà nước dưới góc độ này, Quản lý nhà nước bao gồm có 2 chức năng cơ bản: (1) Lập quy được thực hiện bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện pháp luật; (2) Tổ chức, điều hành, phối hợp các hoạt động kinh tế – xã hội để đưa luật pháp vào đời sống xã hội.

4. Quản lý nhà nước là quản lý dựa trên cơ sở của pháp luật

Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước được tổ chức hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.

Quản lý nhà nước là một lĩnh vực hết sức phức tạp đòi hỏi tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước phải dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các cơ quan thực hiện hoạt động quản lý nhà nước chủ quan, tùy tiện. Quản lý nhà nước là quản lý dựa trên cơ sở của pháp luật được thể hiện qua các khía cạnh sau:

Ban hành các quyết định là hoạt động cơ bản và chủ yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Thông qua các quyết định cơ quan nhà nước giải quyết những công việc khác nhau trong nhiều lĩnh vực. Các quyết định đó phải phù hợp với thẩm quyền, thủ tục ban hành, hình thức do pháp luật quy định. Các quyết định được ban hành phải dựa trên cơ sở luật, nội dung phải phù hợp với luật, quyết định của cơ quan cấp dưới phải phù hợp với quyết định của cơ quan cấp trên, quyết định của địa phương phải phù hợp với quyết định của trung ương và văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực cùng cấp.

Tổ chức thực hiện pháp luật, đảm bảo cho các quy định của pháp luật được các chủ thể tôn trọng và thực sự phát huy được hiệu lực. Thiết lập chế độ thanh tra, kiểm tra, giám sát, phát hiện vi phạm pháp luật, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể.

– Phải chịu trách nhiệm trước xã hội và pháp luật: Các chủ thể quản lý hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm do những sai phạm của mình trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến lợi ích tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và phải bồi thường cho công dân. Chính vì vậy, hoạt động quản lý gắn liền với một chế độ trách nhiệm nghiêm ngặt đối với một chủ thể quản lý. Chế độ trách nhiệm ấy thông qua pháp luật và các hệ thống kỷ luật nhà nước. Cụ thể hơn, yêu cầu của quản lý đặt dưới sự thanh tra, kiểm tra giám sát và tài phán hành chính để pháp chế được tuân thủ thống nhất, mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý theo đúng pháp luật. Sự kiểm tra và giám sát ấy, trước hết phải được bảo đảm thực hiện chính từ chủ thể quản lý. Tự kiểm tra với tư cách tổ chức chuyên môn vì thế cũng rất cần thiết như sự kiểm tra, giám sát từ phía các cơ quan nhà nước tương ứng, các tổ chức xã hội và công dân.

5. Nhập môn ngành Quản lý nhà nước: Ngành quản lý nhà nước

Quản lý nhà nước là ngành học chưa được phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy, ngành học này chưa được nhiều người quan tâm và theo học. Vì vậy chúng ta sẽ tìm hiểu những nội dung cơ bản của Ngành quản lý nhà nước.

Quản lý nhà nước (Tên Tiếng Anh: State Management)  là một ngành học về những thủ tục hành chính nhà nước, nghiên cứu một cách tổng quát nhất về những vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính, về tư tưởng của Nhà nước trong các hoạt động chính trị – xã hội.

Ngay trong tên quản lý – nhà nước đã cơ bản định hình được đặc điểm nghề nghiệp của những người trong ngành. Đó là thực hiện công việc quản lý các vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, … trong các cơ quan nhà nước. Ngành quản lý nhà nước là ngành học đào tạo ra những cử nhân có trình độ năng lực thực hiện công tác quản lý nhà nước, có thái độ và đạo đức nghề nghiệp có tư tưởng chính trị vững vàng để thực hiện các hoạt động ổn định và quản lý nhà nước.

Một trong những hình ảnh quen thuộc mà chúng ta thường thấy đó là những nhân viên công vụ thực hiện các thủ tục hành chính như hỗ trợ người dân công chứng chứng từ, tiếp dân, .. đó chính là một bộ phận trong ngành quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước thực tế rất rộng, nó có thể bao gồm việc quản lý nói chung các ngành kinh tế, các lĩnh vực chính trị, khoa học, ngoại giao,… Nhìn chung quản lý nhà nước là hoạt động quản lý hành chính liên quan đến các vấn đề hành pháp, tư pháp, văn hóa, chính trị,… để đảm bảo ổn định và xây dựng nhà nước.

Ngành quản lý nhà nước là ngành rất rộng với đa dạng các công việc khác nhau. Cụ thể là một số công việc như:

– Nhân viên hành chính văn phòng tại các cơ quan nhà nước

– Trường phòng nội vụ, phòng văn hóa, giám đốc sở nội vụ

– Nhân viên hành chính văn phòng làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân: các doanh nghiệp tư nhân hiện liên tục có nhu cầu tuyển dụng việc làm hành chính văn phòng nhằm đáp ứng các yêu cầu công việc về hành chính nhân sự cho doanh nghiệp như tuyển dụng, đào tạo, đảm bảo các hoạt động hành chính, lưu trữ thông tin, …

– Làm việc ở Bộ phận tham mưu, tổng hợp; trợ lý cho các cấp lãnh đạo, quản lý cho các cơ quan, tổ chức;

– Quản lý, chuyên viên hành chính các cơ quan thuộc khu vực công và khu vực tư;

– Công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước (ban, ngành, sở, phòng, trung tâm..), cơ quan, đơn vị hành chính, sự nghiệp các cấp.

– Công chức, viên chức làm việc trong hệ thống chính trị, các cơ quan Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội, lực lượng vũ trang.

Ngoài ra còn rất nhiều công việc thuộc nhiều lĩnh vực khác có liên quan đến ngành quản lý nhà nước. Vì vậy, đây là một ngành quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và cần thiết phải được chú trọng vào các chương trình đào tạo quản lý nhà nước.

6. Năng lực quản lý nhà nước, con đường hình thành năng lực quản lý nhà nước của bản thân

6.1. Năng lực quản lý nhà nước

Năng lực là sự tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao.

Năng lực quản lý nhà nước là khả năng tiến hành quá trình tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng ở cơ sở nhằm bảo đảm hiệu lực và hiệu quả quản lý cao.

Năng lực của mỗi con người là một yếu tố khó định lượng. Nó được hình thành và tổng hợp hài hòa bởi nhiều yếu tố. Theo Christian Batal (nhà nghiên cứu người Pháp): “Năng lực thực thi công vụ là khả năng của mỗi công chức nhà nước trong việc sử dụng tổng hợp các yếu tố như: kiến thức; kỹ năng, trình độ; thái độ, hành vi để làm được công việc được giao, xử lý tình huống và để thực hiện một nhiệm vụ trong mục tiêu xác định”. Năng lực quản lý nhà nước sẽ là tổng hòa các yếu tố cơ bản sau:

Kiến thức

Kiến thức là những hiểu biết về một lĩnh vực cụ thể. Kiến thức của mỗi người có được do quá trình học tập, lao động, tạo nên cho người đó một thế giới quan khoa học, óc nhận xét, khả năng tư duy, xét đoán và quyết định hành động đúng quy luật, đúng mức độ và đúng thời cơ.

Thông thường trình độ kiến thức của mỗi công chức được đánh giá qua các yếu tố: trình độ giáo dục phổ thông, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý nhà nước và trình độ chuyên mô, nghiệp vụ.

Trình độ giáo dục phổ thông (ở Việt Nam thường gọi là: trình độ văn hóa) là yếu tố cơ bản và là yêu cầu tối thiểu đối với mỗi công chức. Trên thực tế, trình độ giáo dục phổ thông được biểu hiện trên những văn bằng đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.

Trình độ lý luận chính trị là những kiến thức mà công chức được trang bị nhận thức về chế độ xã hội, về bản chất của Nhà nước và về những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Có được những kiến thức đó, cán bộ, công chức sẽ hoạt động đúng định hướng chính trị, giúp cho quá trình tuyên truyền, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách đó vào trong quần chúng đạt hiệu quả cao hơn.

Trình độ quản lý nhà nước: hoạt động của các công chức là hoạt động quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực họ phụ trách nên mỗi công chức phải trang bị cho mình những kiến thức cơ bản nhất về quản lý nhà nước. Những kiến thức này sẽ cho họ hiểu sâu sắc hơn, cụ thể hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của mình và qua đó cũng cung cấp những công cụ, kỹ năng, phương pháp quản lý điều hành giúp họ giải quyết công việc có kết quả và đúng pháp luật.

Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là những kiến thức, khả năng chuyên môn của mỗi người trên lĩnh vực mà họ phụ trách. Nó tạo nên nét đặc thù trong công việc của mỗi cán bộ công chức, nhất là công chức chuyên môn.

Kiến thức không phải là yếu tố duy nhất tạo nên năng lực nhưng nó có một vai trò rất quan trọng. Trong quá trình thực thi công vụ, kiến thức sẽ là nền tảng cho sự nhận thức tiếp thu đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng những chủ trương, chính sách đó vào cuộc sống. Kiến thức cũng là nền tảng để phát triển kỹ năng, thái độ và hành vi của công chức.

Kỹ năng hành chính

Kỹ năng là khả năng làm chủ các kỹ thuật, phương pháp và công cụ để giải quyết công việc. Kỹ năng hành chính được quan niệm một cách khái quát là cách thức mà công chức vận dụng những kiến thức, đặc biệt kiến thức thuộc lĩnh vực hành chính để đạt được kết quả trong thực hiện công vụ.

Kỹ năng có thể bao gồm các yếu tố: phương pháp, khả năng, kinh nghiệm, kỹ xảo… cùng với cả sự khéo léo năng động, sáng tạo trong khi giải quyết công việc. Ở mỗi người, kỹ năng được hình thành từ nhiều con đường. Có thể do khổ luyện, thâm niên công tác hay do tính chuyên môn hóa hoạt động cao. Nhưng dù có hình thành bằng con đường nào đi chăng nữa thì trên thực tế kỹ năng vẫn là khả năng thực sự của công chức, giúp họ hoàn thành nhiệm vụ được giao, giải quyết công việc nhanh chóng, tạo sự hài lòng của những người liên quan. Như vậy, việc nâng cao kỹ năng làm việc là rất quan trọng đối với mỗi công chức và cũng là vấn đề đáng quan tâm trong công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Tiểu luận Nhập môn ngành Quản lý nhà nước
Tiểu luận Nhập môn ngành Quản lý nhà nước

Thái độ, hành vi.

Thái độ, hành vi chính là làm chủ thái độ, hành vi; làm chủ trạng thái tinh thần của bản thân. Việc đánh giá khách quan loại hình năng lực thái độ, hành vi khó hơn đánh giá các loại năng lực khác, tuy nhiên càng ngày nó càng được các nhà quản lý và khách hàng của nền công vụ quan tâm hơn, bởi đây là một yếu tố không kém phần quan trọng trong khi thực hiện nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức. Thực tế cho thấy, một người có đầy đủ kiến thức, kỹ năng làm việc nhưng không tâm huyết với công việc thì kiến thức, kỹ năng đó cũng trở nên ít ý nghĩa.

Thái độ, hành vi chính là sự biểu hiện cụ thể nhất của đạo đức công chức. Ở mỗi vị trí công việc, công chức phải hành động theo những giá trị, những hành vi chuẩn mực được pháp luật công vụ quy định. Đối với các công chức, mà đặc trưng công việc là sử dụng quyền lực nhà nước trong thực thi công vụ thì khả năng làm chủ thái độ, hành vi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Thái độ, hành vi được hình thành trong cùng một điều kiện như hình thành kỹ năng. Nhưng việc học tập các “thái độ, hành vi” đó đòi hỏi mỗi công chức phải ý thức được tầm quan trọng của yếu tố ‘thái độ, hành vi” trong công việc, đồng thời việc học tập các “thái độ, hành vi” còn là nghĩa vụ theo luật định đối với công chức.

Ngoài ra, để cấu thành năng lực thực thi công vụ còn một số yếu tố khác như: tác phong, sức khoẻ… Nhưng khung năng lực với 3 yếu tố trên vẫn là quan điểm được nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu và công nhận.

Tuy nhiên năng lực thực thi công vụ không phải là tổng của các yếu tố trên. Mà quan trọng nó là sự quy tụ đồng thời, là sự phối kết hợp chặt chẽ các yếu tố trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định nhằm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Năng lực thực thi công vụ chính là khả năng thực tế của mỗi người công chức trong việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Có nhiều yếu tố cấu thành nên năng lực nhưng nói tóm lại thì có 3 yếu tố chính: kiến thức; kỹ năng; thái độ, hành vi. Điều quan trọng là phải biết kết hợp, biết tổng hòa các yếu tố đó trong quá trình thực thi công vụ.

Nhận thức năng lực giúp hoạt động quản lý nguồn nhân lực trong khu vực nhà nước có khả năng đạt hiệu quả, bởi năng lực được xác định dựa trên những yếu tố có thể định lượng được. Với cách nhận thức về năng lực nêu trên, các nhà quản lý có thể tiến hành các hoạt động như tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng công chức có căn cứ cụ thể, sát thực, giảm thiểu những lãng phí nguồn lực của tổ chức.

Ngoài ra, còn có những tiêu trí chung về năng lực quản lý nhà nước đó là: Trung thành với Đảng, nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm nội quy, quy chế cơ quan, tổ chức; Trở thành một công chức chuyên nghiệp, làm việc hiệu quả; Trở thành một đồng nghiệp tận tình, một cộng sự tốt, biết làm việc nhóm, tinh thần đoàn kết, đồng đội, tận tâm; Thành thạo những kiến thức và kỹ năng chuyên môn để giải quyết các công việc; Người lao động sáng tạo và không ngừng đổi mới; Hiểu biết xã hội; Tinh thần phục vụ xã hội, phụng sự tổ quốc.

6.2. Con đường hình thành năng lực quản lý nhà nước của bản thân

Là một sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một, khoa Khoa học Quản lý, tôi luôn nhận thức được tầm quan trọng của ngành Quản lý nhà nước, vì vậy trong thời gian học tập tôi luôn trau dồi cho bản thân những kiến thức và kỹ năng về chuyên ngành quản lý nhà nước. Đó là một trong những mục tiêu chính trong con đường hình thành năng lực quản lý nhà nước của bản thân tôi.

Trước hết, là về mảng kiến thức chuyên ngành quản lý nhà nước:  Về kiến thức đại cương: để có một nền tảng vững chắc thì việc nắm chắc kiến thức chung về quản lý nhà nước là điều cần thiết. Các kiến thức cơ bản về lý luận chính trị (Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Chính trị học đại cương, Lý luận nhà nước và pháp luật), các kiến thức cơ bản về khoa hoc xã hội và nhân văn như tâm lý học, xã hội học, lịch sử văn minh thế giới, logic học, phương pháp nghiên cứu khoa học, kinh tế học… sẽ là cơ sở cho những kiến thức chuyên ngành sau này. Thông qua đó, tôi rèn luyện khả năng tư duy biện luận trong học tập và làm việc, có khả năng nghiên cứu khoa học phục vụ công việc và định hướng học tập sau này. 

Về kiến thức chuyên môn: Đây là kiến thức trọng tâm và là yếu tố chính hình thành năng lực của bản thân trong ngành quản lý nhà nước, do đó mục tiêu đầu tiên sẽ là nắng vững kiến thức trong các môn học tại trường dưới sự hướng dẫn của các giảng viên. Sau đó, bản thân phải không ngừng tìm hiểu các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước. Quan điểm của bản thân tôi đó là “Học phải đi đôi với hành”, vì vậy mục tiêu thứ hai được đề ra đó là nghiên cứu để áp dụng những kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn trong hoạt động của nền hành chính nhà nước.

Về kỹ năng: Để có một năng lực làm việc hoàn thiện thì ngoài kiến thức chuyên môn thì kỹ năng là một yếu tố không thể thiếu. Đối với ngành quản lý nhà nước, tôi xác định những kỹ năng cơ bản cần phải có để phục vụ tốt cho công việc chia làm hai loại kỹ năng đó là:

Kỹ năng mềm bao gồm: kỹ năng phân tích vấn đề giải quyết vấn đề; kỹ năng làm việc theo nhóm; Kỹ năng lắng nghe, giao tiếp, thuyết trình và đàm phán tốt; Kỹ năng làm việc độc lập: đọc hiểu các tài liệu trong nước, ngoài nước về chuyên ngành quản lý; Sử dụng thành thạo các phần mềm : chuyên dụng thuộc chuyên ngành đào tạo, các phần mềm Microsoft office (word, excel, powerpoint); Kỹ năng tiếng Anh giao tiếp và hoạt dộng chuyên môn.

Kỹ năng cứng: Kỹ năng soạn thảo các loại văn bản hành chính, văn bản quản lý nhà nước, Kỹ năng lập kế hoạch tuyển dụng, bố trí nhân sự, kiểm tra và đánh giá nhân sự; Kỹ năng quản lý, lưu trữ hồ sơ, tài liệu; Kỹ năng tổ chức hội họp, tiếp khách; Kỹ năng sắp xếp, tổ chức công sở, phòng làm việc khoa học; Có khả năng phân tích và đánh giá thực trang của việc quản lý hành chính Nhà nước trong các lĩnh vực; Kỹ năng tiếp cận, áp dụng và cập nhật hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế công việc; sử dụng thành thạo các kỹ năng soạn thảo và ban hành văn bản, nghiệp vụ lưu trữ văn bản, kỹ năng quản trị văn phòng và tổ chức, điều hành công sở…

Cuối cùng là thái độ và phẩm chất đạo đức: Để hoàn thành tốt mọi công việc thì cần có thái độ nghiêm túc, tích cực, thân thiện và có trách nhiệm và luôn có tinh thần tự giác học hỏi, năng động. Tài thì phải đi đôi với Đức, đặc biệt đối với ngành quản lý nhà nước, đòi hỏi phải có lập trường chính trị kiên định, vững vàng, có đạo đức của người công chức trong quá trình thi hành công vụ.

Trên cơ sở các kỹ năng cần cho quản lý nhà nước, tôi sẽ cố gắng hoàn thiện và phát triển từng kỹ năng phù hợp với bản thân và ngành học của mình.

7. Sự cần thiết của học phần Nhập môn ngành Quản lý nhà nước

Tại Việt Nam, ngành quản lý nhà nước là ngành học chưa được phổ biến. Vì vậy, ngành học này chưa được nhiều người quan tâm và theo học. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, vị trí vai trò quản lý nhà nước ngày càng quan trọng trong việc xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, đội ngũ cán bộ ở các vị trí lãnh đạo quản lý; đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước phải là những người có trình độ chuyên môn cao, năng lực tốt. Do đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực cho ngành quản lý nhà nước cần được chú trọng hơn.

Trường Đại học Thủ Dầu Một là một số ít những trường đào tạo chuyên ngành này. Và môn học “Nhập môn ngành Quản lý nhà nước” là môn học cơ bản trong chương trình đào tạo chuyên ngành quản lý nhà nước. Đây là môn học đóng vai trò quan trọng, tạo dựng nền móng, là tiền đề cho sinh viên bước vào chương trình xây dựng khối kiến thức chung về Quản lý nhà nước và định hướng khối lượng kiến thức chuyên ngành giai đoạn sau này. Môn học sẽ giới thiệu đến sinh viên những kiến thức chung nhất về ngành quản lý nhà nước. Ngoài ra, qua môn học, sinh viên được tham gia vận dụng kiến thức cơ bản về khoa học xã hội và khoa học liên ngành để nhận biết và giải thích được các vấn đề cơ bản liên quan đến pháp luật, quản lý nhà nước. Vì vậy, để học tốt được các môn chuyên ngành thì việc nắm vững và hiểu sâu các kiến thức cơ bản là vô cùng quan trọng. Do đó, học phần “Nhập môn ngành Quản lý nhà nước” là bước đệm cần thiết trong quá trình đào tạo sinh viên chuyên ngành Quản lý nhà nước.

8. Vận dụng, triển khai các kiến thức, kỹ năng và thái độ của Nhập môn ngành Quản lý nhà nước đối với quá trình công tác của mình ở cơ quan, tổ chức, địa phương

Sau một quá trình học chuyên ngành Quản lý nhà nước, sinh viên sẽ có được những kiến thức chuyên môn, được rèn luyện kỹ năng và thái độ phù hợp với ngành học. Việc vẫn dụng, triển khai các kiến thức, kỹ năng và thái độ đó một cách có hiệu quả là việc rất quan trọng.

Kiến thức chung: Vận dụng tư duy biện luận và khả năng nghiên cứu khoa học đã được hình thành trong quá trình học tập để phục vụ công việc.

 Kiến thức chuyên môn: Trình bày các hiểu biết và phân tích các mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị địa phương; phân tích và thực hiện các nghiệp vụ cơ bản của chu trình chính sách; thống hiểu và vận dụng pháp luật hiện hành giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức, hoạt động của nền hành chính nhà nước; phản tích nội dung, chức năng và chu trình quản lý nhà nước chuyên ngành.

Kỹ năng: Sử dụng kỹ năng tiếp cận, áp dụng và cặp nhật hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế công việc; sử dụng thành thạo các kỹ năng soạn thảo và ban hành văn bản, nghiệp vụ lưu trữ văn bản, kỹ năng quản trị văn phòng và tổ chức, điều hành công sở vào trong công việc.

 Thái độ và phẩm chất đạo đức: luôn có thái độ nhiệt huyết với nghề, có lập trường chính trị kiến định, vững vàng, có đạo đúc của người công chức trong quá trình thực thi công vụ có thái độ tích cực, thân thiện hợp tác, tuần thủ và trách nhiệm có khả năng nghiên cứu, học tập suốt đời, đổi mới sáng tạo.

9. Đặt ra một tình huống hoặc lấy một ví dụ cụ thể và đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực hoặc hoạt động đó tại địa phương.

Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý đất đai trên địa bàn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

  • Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) trong quản lý đất đai trên địa bàn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước đối với thực hiện TTHC trong quản lý đất đai trên địa bàn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

– Nhận thức, tư duy về quản lý nhà nước, cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai, cung cấp dịch vụ công của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền chậm được đổi mới, thực thi công vụ còn có tư tưởng “xin – cho”; chưa thấy hết được ý nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi cấp bách của cải cách TTHC để giải phóng mọi nguồn lực cho mục tiêu phát triển.

– Hiện nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng, ban hành được Luật về TTHC nói chung nhằm quy định chặt chẽ việc xây dựng, ban hành và thực hiện TTHC. Hơn nữa, công tác đánh giá cải cách TTHC ở nước ta chưa có những tiêu chí định lượng cụ thể. Do đó, rất khó xác định được kết quả cụ thể cải cách TTHC trong quản lý đất đai. Một số văn bản còn chung chung, khó hiểu, khó áp dụng vào thực tiễn.

THAM KHẢO THÊM ⇒ TRỌN BỘ MẪU TIỂU LUẬN ĐIỂM CAO

– Chưa chuẩn hóa hết được trình độ chuyên môn của cán bộ từ đại học trở lên và đúng với chuyên ngành đào tạo.Vẫn còn công dân cho rằng năng lực cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu trong giải quyết công việc.

– Cán bộ cập nhật thông tin pháp luật liên quan đến thực hiện TTHC còn thụ động từ các cuộc họp, hội thảo, hội nghị, đường công văn tại cơ quan, đơn vị hoặc báo cáo chuyên môn định kỳ. Chưa có sự chủ động tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo.

– Số lượng hồ sơ cần giải quyết nhiều, lực lượng cán bộ mỏng, thời gian quy định ngắn nên gây áp lực cho cán bộ.

– Việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai chưa hoàn thành. Việc ứng dụng công nghệ mới ở bước đầu, nên vẫn cò tình trạng quản lý văn bản dạng giấy là phổ biến.

– Về các bước người dân phải thực hiện khi tham gia thủ tục đăng ký biến – động GCN (chuyển quyền) là quá dài, người dân phải đi lại nhiều lần, liên hệ ở nhiều cơ quan khác nhau để hoàn thành được một TTHC. Cụ thể là đến 9 bước: Bước 1: Liên hệ UBND xã nơi có đất xác nhận vị trí nhà, đất (đối với những trường hợp có thu tiền lệ phí trước bạ nhà, đất); Bước 2: Nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND Huyện; Bước 3: Liên hệ bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để nhận phiếu chuyển thông tin địa chính kèm giấy tờ cần thiết chuyển qua cơ quan thuế; Bước 4: Nộp hồ sơ tại Chi cục Thuế Huyện; Bước 5: Sau 5 ngày làm việc, trở lại Chi cục Thuế nhận thông báo thực hiện nghĩa vụ tài chính; Bước 6: Nộp tiền tại các Ngân hàng có liên kết với Kho bạc nhà nước; Bước 7: Nộp biên lai đóng tiền tại Chi cục Thuế để Chi cục Thuế xác nhận Phiếu báo đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính; Bước 8: Liên hệ bộ phận tiếp nhận và trả kết quả Huyện để nộp hồ sơ đã thực hiện nghĩa vụ tài chính; Bước 9: Sau 5 ngày làm việc, liên hệ bộ phận tiếp nhận và trả kết quả Huyện để nhận kết quả.

  • Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý đất đai trên địa bàn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Một là: Rà soát, cắt giảm và đơn giản hóa liên quan tới người dân, doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các TTHC về lĩnh vực đất đai theo quy định của pháp luật; công khai, minh bạch tất cả các TTHC về lĩnh vực đất đai. Thực hiện thống nhất cách tính chi phí mà cá nhân, tổ chức phải trả khi giải quyết các TTHC về lĩnh vực đất đai tại cơ quan hành chính nhà nước.

Hai là: Cải cách chế độ công vụ, công chức, viên chức. Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý; thực hiện các Đề án Đào tạo nguồn nhân lực. hoàn thiện chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực, sở trường của công chức

Ba là: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa. Ứng dụng công nghệ thông tin trong xử lý quy trình công việc, trong giao dịch với các tổ chức và cá nhân; xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân đáp ứng yêu cầu đơn giản, minh bạch và thuận tiện; công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên môi trường mạng thông tin điện tử của thành phố.

10. Kết luận đề tài Nhập môn ngành Quản lý nhà nước

Hiện nay, cùng với việc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thì Đảng và Nhà nước ta cũng quan tâm, chú trọng đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Quản lý nhà nước, nhằm phục vụ cho công việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Việc đào tạo đội ngũ nhân lực quản lý nhà nước có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao cũng là một trong những giải pháp thiết thực trong quá trình phát triển đất nước.

Trong tiểu luận trên, tác giả đã tổng quan những vấn đề liên quan đến ngành học Quản lý nhà nước như khái niệm quản lý nhà nước, nguyên tắc của quản lý nhà nước là quản lý dựa trên cơ sở pháp luật. Tác giả cũng phân tích rõ hơn về ngành Quản lý nhà nước là như thế nào, khi ra trường sinh viên sẽ làm những công việc gì. Ngoài ra, tiểu luận cũng chỉ ra được những năng lực cần phải có trong ngành Quản lý nhà nước và định hướng con đường cũng như cách thức để giúp bản thân hình thành năng lực đó.

Và phần quan trọng nhất trong tiểu luận đó là tác giả đã nêu ra được sự quan trọng của học phần “Nhập môn ngành Quản lý nhà nước” trong quá trình đào tạo chuyên ngành quản lý nhà nước đối với sinh viên. Học phần là những kiến thức cơ bản, tạo dựng nền móng cho các kiến thức chuyên ngành sau này. Cuối cùng, tiểu luận đã vận dụng, triển khai các kiến thức, kỹ năng và thái độ của ngành học Quản lý nhà nước đối với quá trình công tác ở cơ quan, tổ chức, địa phương và đưa ra tình huống thực tiễn đó là Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thực hiện thủ tục hành chính trong quản lý đất đai trên địa bàn huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Các nội dung trong bài tiểu luận sẽ là tài liệu tham khảo giúp sinh viên có một cái nhìn rõ hơn về chuyên ngành quản lý nhà nước và học phần “Nhập môn ngành Quản lý nhà nước”. Từ đó, sẽ giúp sinh viên có định hướng cụ thể và cách thức học phù hợp với bản thân để đạt được kết quả cao nhất.


Chia sẻ đến các bạn bài Tiểu luận: Nhập môn ngành Quản lý nhà nước. Trong quá trình làm việc nếu các bạn gặp khó khăn hay có nhu cầu muốn thuê người viết thì liên hệ trực tiếp với AD qua: 0934 536 149

Contact Me on Zalo