Tiểu luận: Ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật & thực hiện pháp luật

Rate this post

Hiện nay, người dân Việt Nam lúc nào cũng cần nâng cao ý thức của bản thân để xây dựng một đất nước văn minh, phát triển. Những việc nâng cao ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật luôn đóng vai trò quan trọng. Bởi lẽ đó, nên AD chia sẻ với các bạn chủ đề này nhằm giúp các bạn có thêm tài liệu để tham khảo, vận dụng vào bài làm của mình.

Nếu các bạn không có thời gian làm bài hay cần thuê người viết Tiểu luận thì tham khảo ngay Dịch vụ viết thuê Tiểu luận của Trangluanvan.com


Phần mở đầu Tiểu luận: Ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật 

– Lý do chọn đề tài
Trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, tác động, trong đó, ý thức pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Đây là tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc thực hiện pháp luật, xây dựng và phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện hành vi của chủ thể, góp phần nâng cao phẩm chất, nhân cách con người.
Hệ thống pháp luật dù được xây dựng và ngày càng hoàn thiện với nhiều nguồn luật khác nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nâng cao ý thức pháp luật, pháp luật chưa thể theo kịp sự phát triển của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, thái độ, ý thức pháp luật của một số bộ phận chưa cao. Điều này xuất phát từ khả năng hiểu biết pháp luật chưa đầy đủ, ý thức chấp hành pháp luật chưa cao, từ đó, dẫn đến tình trạng trong các quan hệ quản lý hành chính nhà nước, nhiều hoạt động, cán bộ, công chức nhà nước vẫn còn biểu hiện quan liêu, hách dịch, người dân có tâm lý thiếu tự tin khi làm việc với cơ quan nhà nước; trong các quan hệ dân sự nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên bị xâm phạm. Hay nói cách khác, do những động cơ, mục đích khác nhau, ý thức tuân thủ pháp luật còn chưa cao. Do đó, việc nghiên cứu vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là rất quan trọng.
– Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, xây dựng và thực hiện pháp luật, làm rõ mối liên hệ, vai trò của ý thức pháp luật với xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật. Chỉ ra thực trạng chung của ý thức pháp luật ảnh hưởng tới hai quá trình trên, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật.
– Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tiểu luận nghiên cứu vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu mối quan hệ, sự tác động qua lại của các yếu tố, thực trạng liên quan và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật.
– Phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích, tổng hợp,…
– Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, đồng thời, khẳng định sự ảnh hưởng của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật

Tham khảo thêm ⇒ Cách viết Tiểu luận tình huống điểm cao

Phần nội dung Ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật 

1. Cơ sở lý luận về vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật

1.1. Một số vấn đề lý luận về ý thức pháp luật

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm ý thức pháp luật

Trong xã hội hiện nay, việc hình thành nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của con người chịu sự ảnh hưởng của ý thức pháp luật. Theo đó, các hành vi pháp luật, các mối quan hệ pháp luật của con người đều được thực hiện trên cơ sở nâng cao ý thức pháp luật. Vậy ý thức pháp luật là gì?
“Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật và sự đánh giả về mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp đổi với các hành vi thực tiễn” .
Ý thức pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, khi xã hội đạt đến trình độ phát triển nhất định, khi mà các phương tiện điều chỉnh khác không còn đủ khả năng để quản lý xã hội hiệu quả. Về mặt triết học, ý thức pháp luật là một trong những hình thái ý thức xã hội, do đó, nó có đầy đủ những đặc điểm của ý thức xã hội:
Ý thức pháp luật chịu sự quyết định của tồn tại xã hội
Vào các thời kỳ, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, thái độ, nhận thức, quan điểm của con người cũng khác nhau. Các Mác đã khẳng định: “Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ, quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội và tồn tại xã hội luôn có mối quan hệ biện chứng và tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức pháp luật chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, ngược lại, tồn tại xã hội chi phối, quyết định ý thức pháp luật. Khi tồn tại xã hội thay đổi, ý thức pháp luật cũng thay đổi theo.
Ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội
Dù chịu sự chi phối, tuy nhiên, ý thức pháp luật cũng có tính độc lập nhất định.
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội là cái có trước ý thức pháp luật. Bên cạnh đó, tồn tại xã hội có thể mất đi, nhưng ý thức xã hội do nó sản sinh ra vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời gian khá dài. Nhiều tư tưởng, quan niệm, quan điểm trong quá khứ vẫn được nhiều người dân hiện nay áp dụng. Một số trường hợp khác, ý thức pháp luật có thể vượt trước tồn tại xã hội, có tính định hướng cho tồn tại xã hội.
Ý thức pháp luật mang tính kế thừa. Trong quá trình phát triển, ý thức pháp luật luôn giữ lại những tư tưởng, quan điểm pháp lý tiến bộ của các thời kỳ trước, đặc biệt là những tư tưởng có giá trị bền vững, khó thay đổi. Phát triển từ những tư tưởng tiến bộ giúp pháp luật được hoàn thiện hơn.
Ý thức pháp luật luôn tác động qua lại với tồn tại xã hội, các hình thái ý thức xã hội khác và các hiện tượng của kiến trúc thượng tầng pháp lý. Trong đó, sự tác động của ý thức pháp luật đối với tồn tại xã hội không diễn ra một cách trực tiếp mà thông qua hành vi pháp luật. Sự tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, tôn giáo luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình tồn tại và vận động. Ngoài ra, ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc hình thành hệ thống cơ quan nhà nước và quá trình thwucj thi quyền lực nhà nước. Ý thức pháp luật luôn là nhân tố tiền đề cho việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.
Ý thức pháp luật mang tính giai cấp
Là sản phẩm trực tiếp của giai cấp cầm quyền, ý thức pháp luật mang tính giai cấp sâu sắc. Nâng cao ý thức pháp luật của giai cấp cầm quyền là tiền đề, cơ sở để xây dựng các giá trị, chuẩn mực pháp lý đối với xã hội, hình thành thế giới quan pháp lý chính thống trong xã hội.

1.1.2. Các loại ý thức pháp luật

Căn cứ nội dung, tính chất của hệ tư tưởng và tâm lý pháp luật, có thể phân ý thức pháp luật thành ý thức pháp luật thông thường, ý thức pháp luật mang tính lý luận và ý thức pháp luật chuyên ngành. Trong đó, ý thức pháp luật thông thường biểu hiện ở khả năng phản ánh các hiện tượng pháp lý, khả năng nhận thức pháp luật còn có những hạn định, bên ngoài, phiến diện và riêng rẽ. Cấp độ ý thức này chỉ mang tính phổ thông. Ý thức pháp luật lý luận thể hiện sự nhận thức về pháp luật và các hiện tượng pháp lý một cách sâu sắc, toàn diện cả về bản chất, nội dung và hình thức. Cấp độ ý thức này thường đi liền với ý thức và hoạt động khoa học. Ý thức pháp luật chuyên ngành là dạng ý thức được nhận diện theo từng lĩnh vực nghề nghiệp. Xét về nội dung và yêu cầu, loại ý thức này vừa mang những đặc điểm của ý thức pháp luật nói chung vừa những đặc điểm riêng biệt của từng chuyên ngành cụ thể. Ý thức pháp luật chuyên ngành thể hiện mức độ chuyên sâu về sự hiểu biết, phân tích, đánh giá về những đối tượng thuộc lĩnh vực đó,
Nếu căn cứ vào chủ thể, ý thức pháp luật có thể tồn tại các dạng ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật xã hội.

1.1.3. Cấu trúc của ý thức pháp luật

Ở góc độ chung, ý thức pháp luật có hai bộ phận lớn hợp thành là hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, trường phái lý luận về pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật không đơn thuần là sản phẩm của giai cấp cầm quyền sáng tạo nên mà nó còn hàm chứa các giá trị khoa học được đúc kết, kế thừa từ thực tế của nền văn minh pháp lý nhân loại.
Tâm lý pháp luật được hình thành trên cơ sở nhận thức, biểu hiện tâm trạng, xúc cảm, thái độ của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác. Tâm lý pháp luật có tính bền vững là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Mặt khác, tâm lý pháp luật có thể biến đổi khi môi trường kinh tế, chính trị và pháp lý có sự thay đổi.

1.2. Một số vấn đề lý luận về xây dựng pháp luật

Xây dựng pháp luật có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. “Theo nghĩa rộng, xây dựng pháp luật là hoạt động của tất cả tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình tạo lập pháp luật. Quá trình tạo lập pháp luật bao gồm rất nhiều hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau, do nhiều tổ chức và cá nhân có vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn khác nhau cùng tiến hành, nhằm chuyến hoá ý chí nhà nước thành những quy định pháp luật dựa trên những nguyên tắc nhất định và được thể hiện dưới những hình thức pháp lý nhất định, đặc biệt là hình thức văn bản quy phạm pháp luật. Theo nghĩa hẹp – Xây dựng pháp luật là quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước. Kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là làm hình thành nên các quy định pháp luật mới để bổ sung vào hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành hoặc sửa đổi, loại bỏ những quy định pháp luật đã lỗi thời, không còn phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội hiện tại, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Do vậy, xây dựng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo, là một quá trình sáng tạo ra các quy định pháp luật”.
Các hoạt động tạo ra quy phạm pháp luật bao gồm: xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, thừa nhận các quy tắc đạo đức, phong tục, tập quán có khả năng áp dụng chung, ban hành án lệ (các bản án, quyết định của tòa án có khả năng giải quyết các vụ việc tương tự về sau).
“Vì pháp luật là một hệ thống nên khi ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ bất kì một quy định pháp luật nào cũng cần phải cân nhắc xem xét đến tính hệ thống của nó trong tổng thể của hệ thống quy phạm pháp luật của đất nước, tức là sự phù hợp, sự tác động, ảnh hưởng của nó đối với các quy phạm pháp luật hiện hành. Do sự liên kết chặt chẽ giữa các quy phạm pháp luật, giữa các bộ phận của hệ thống pháp luật, cho nên một quy phạm pháp luật được bổ sung hay thay đổi có thể dẫn đến sự thay đổi của các quy phạm pháp luật khác, sự thay đổi của các hiện tượng pháp luật khác, vì vậy, không thể tuỳ tiện khi xây dựng các quy định pháp luật”.

1.3. Một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật

“Thực hiện pháp luật là hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định, với yêu cầu của pháp luật, tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định.
Thực hiện pháp luật có thể là một xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất đính nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động, tức là không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm.
Có bốn hình thức thực hiện pháp luật:
Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật một cách thụ động, thể hiện ở sự kiểm chế của chủ thể để không vi phạm các quy định cấm đoán của pháp luật. Vĩ dụ, không nhận hối lộ, không sử dụng chất ma tuý, không thực hiện hành vi lừa đảo, không lái xe trong tình trạng say rượu…;
Thỉ hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật một cách chủ động. Chủ thể pháp luật phải thực hiện một thao tác nhất định mới có thể thực hiện pháp luật được. Ví dụ, thực hiện nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, nghĩa vụ lao động công ích, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, chăm sóc ông bà, cha mẹ khi già yếu;
Sử dụng pháp luật là khả năng của các chủ thể pháp luật có thể sử dụng khai thác hay không sử dụng, khai thác, hưởng quyền mà luật đã dành cho mình. Ví dự: công dân có quyền đi lại trong nước, ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về nước theo quy định của pháp luật. Nét đặc biệt của hình thức thực hiện pháp luật này so với tuân thủ pháp luật và thi hành pháp luật là chủ thể pháp luật có thể thực hiện hay không thực hiện quyền mà pháp luật cho phép còn ở hai hình thức trên, việc thực hiện mang tính bắt buộc;
Áp dụng pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên các quy định của pháp luật để giải quyết, xử lí những vấn để cụ thể thuộc trách nhiệm của mình” .

Tham khảo thêm ⇒ Tiểu luận: Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

1.4. Vai trò của sự tác động ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật

1.4.1. Đối với hoạt động xây dựng pháp luật

Trong hoạt động xây dựng pháp luật, ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:
“Trong quá trình hoạt động và phát triển, trên cơ sở ý thức pháp luật, nhận thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật có thể xác định được quan hệ xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật, mức độ điều chỉnh (bằng luật hay văn bản dưới luật)… Đồng thời, có thể xác định được trình độ phát triển của kinh tế – xã hội, nhu cầu khách quan của đời sống xã hội để đặt ra các quy định của pháp luật phù hợp với các điều kiện đó.
Khi xây dựng pháp luật, trên cơ sở ý thức pháp luật của mình, các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định được trong số các quy phạm xã hội đang tồn tại, những quy phạm nào có thể thừa nhận thành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của nhà nước thì thừa nhận thành pháp luật, những quy phạm nào không phù hợp thì đặt ra các quy phạm mới để thay thế chúng, những quan hệ xã hội nào cần điều chỉnh mà chưa có pháp luật thì đặt ra quy tắc mới… Nhờ vậy mà làm hình thành nên một hệ thống pháp luật.
Trong quá trình thực hiện hệ thống pháp luật đã được ban hành, cũng phải trên cơ sở ý thức pháp luật hay trên cơ sở kiến thức, hiểu biết của mình, các chủ thể có thẩm quyền có thể xác định được quy phạm pháp luật nào phù hợp với thực tại khách quan, có tính khả thi thì tiếp tục sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nước, quy phạm nào không phù hợp thì ban hành hoặc đề nghị ban hành quy phạm hoặc văn bản mới để thay thế, làm cho hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Khái quát lại, vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng và hoàn thiện pháp luật thể hiện ở các góc độ:
Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách pháp luật và các yêu cầu của việc điều chỉnh pháp luật.
Nâng cao khả năng quy phạm hóa các nội dung điều chỉnh pháp luật và xác định các chuẩn mực pháp lý phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế.
Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đúng quy trình kỹ thuật pháp lý, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau trên thực tế.
Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hóa pháp luật, đặc biệt là hoạt động pháp điển quy phạm pháp luật trên thực tế.

1.4.2. Đối với hoạt động thực hiện pháp luật

Ý thức pháp luật là yếu tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong thực tế
Ý thức pháp luật của mỗi người được thể hiện thông qua trình độ hiểu biết pháp luật, thái độ đối với pháp luật (tôn trọng, ủng hộ hoặc coi thường, chống đối) và hành vi pháp luật thực tế của người đó (hợp pháp hoặc bất hợp pháp). Nếu mọi người trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, tức là đều hiểu biết đúng đắn yêu cầu của các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động của mình, đều có thái độ tôn trọng, ủng hộ các quy định đó nên luôn luôn có các hành vi hợp pháp thì pháp luật sẽ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác hơn.
Ý thức pháp luật là yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật được đúng đắn, chính xác
Trong quá trình áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền thường phải ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết vụ việc.
Các quyết định áp dụng pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới đối tượng áp dụng, có thể mang lại cho người ta những lợi ích rất to lớn (Ví dụ: quyết định đề bạt, tăng lương, phân nhà…); song cũng có thể bắt người ta phải gánh chịu những hậu quả rất nặng nề (bị phạt tiền, bị phạt tù, bị kỷ luật…). Do vậy, để bảo đảm công lý, công bằng xã hội, các quyết định đó phải được ban hành một cách đúng đắn, chính xác, vừa thấu tình, vừa đạt lý.
Muốn đưa ra được các quyết định áp dụng pháp luật đáp ứng yêu cầu trên thì chủ thể áp dụng phải hiểu rõ các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật để lựa chọn đúng quy phạm pháp luật cần áp dụng, giải thích quy phạm đó phù hợp với trường hợp cần áp dụng và có ý thức tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh quy phạm đó trong quá trình áp dụng, tức là phải có ý thức pháp luật cao.
Đặc biệt, ý thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng có vai trò quyết định cao hơn đối với tính đúng đắn của các quyết định được ban hành trong quá trình áp dụng pháp luật tương tự. Trong quá trình giải quyết các vụ việc theo hình thức áp dụng này, để có thể đưa ra được một quyết định hợp với lòng người, bảo đảm được công lý, công bằng xã hội thì đòi hỏi người áp dụng phải đạt đến trình độ có thể sử dụng pháp luật một cách có nghệ thuật và kỹ thuật”.

2. Thực trạng về vai trò của sự tác động ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật

2.1. Những ưu điểm đạt được

2.1.1. Trong hoạt động xây dựng pháp luật

Nhờ ý thức pháp luật được nâng cao, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hoạt động xây dựng pháp luật cũng ngày càng hoàn thiện và phát triển. “Ngày 24/5/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW). Nghị quyết là văn kiện đầu tiên của Đảng chuyên sâu về công tác pháp luật, với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đổi mới căn bản công tác xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, gắn với những nội dung, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được đề ra trong Nghị quyết cơ bản đã hoàn thành. Chất lượng của hệ thống pháp luật có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ. Các văn bản đều được đánh giá về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ trước khi ban hành. Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật từng bước được nâng lên. Công tác xây dựng pháp luật đã được đổi mới. Quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất cho cả Trung ương và địa phương. Quy trình xây dựng chính sách tách bạch với quy trình soạn thảo luật, pháp lệnh, bảo đảm sự phù hợp của văn bản quy phạm pháp luật với đường lối, chủ trương của Đảng, từng bước nâng cao tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách, pháp luật; vai trò tham gia của xã hội vào quy trình xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước được quy định cụ thể; pháp luật về hợp nhất, pháp điển văn bản quy phạm pháp luật góp phần bảo đảm cho hệ thống pháp luật đơn giản, rõ ràng, dễ tra cứu, tiếp cận, dễ sử dụng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”. Theo đó, các quy phạm pháp luật không ngừng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Những quy phạm pháp luật không còn phù hợp đã được thay thế bằng những quy phạm pháp luật mới. Những thời điểm như 1/1 và 1/7 hàng năm là thời điểm nhiều quy định pháp luật mới có hiệu lực. Ví dụ từ 1/1/2022, “sáu luật có hiệu lực thi hành đó là, Luật Bảo vệ môi trường; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; Luật Biên phòng Việt Nam; Luật Phòng, chống ma túy; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều và Phụ lục Danh mục chỉ tiêu thống kê quốc gia của Luật Thống kê.
Ví dụ, Luật Bảo vệ môi trường 2020 được Quốc hội khóa XIV, Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 17/11/2020. Luật này gồm 16 chương, 171 điều có hiệu lực thi hành từ 1/1/2022; riêng khoản 3, Điều 29 về đánh giá sơ bộ tác động môi trường có hiệu lực thi hành từ 1/2/2021.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 có nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, cắt giảm trên 40% thủ tục hành chính, giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính từ 20-85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp thông qua các quy định. Đồng thời, thu hẹp đối tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường; tích hợp các thủ tục hành chính vào 1 giấy phép môi trường; đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án.
Luật có nhiều chính sách mới đột phá như: Lần đầu tiên cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác bảo vệ môi trường; tăng cường công khai thông tin, tham vấn và phát huy vai trò giám sát, phản biện, đồng thời, được bảo đảm quyền và lợi ích của cộng đồng dân cư khi tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường; thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với các dự án đầu tư theo các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường…
Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của luật này là quy định chặt chẽ về nghĩa vụ phân loại rác thải sinh hoạt của mỗi gia đình, cá nhân. Điều 60 quy định: Hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm giảm thiểu, phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn, thu gom và chuyển rác thải sinh hoạt đã được phân loại đến đúng nơi quy định…”

Tham khảo thêm ⇒ Hướng dẫn cách viết & trình bày Tiểu luận

2.1.2. Trong hoạt động thực hiện pháp luật

Việc thực hiện pháp luật cũng được gắn liền với ý thức pháp luật. Khi pháp luật được nâng cao, quá trình áp dụng, thực hiện, thi hành pháp luật cũng đạt được nhiều thành tích.
Trong năm, “Trụ sở tiếp công dân trung ương đã tiếp thường xuyên 1.692 lượt với 4.429 lượt công dân đến trình bày 1.441 vụ việc; 144 lượt đoàn đông người. Trong đó Ban đã tiếp 1.236 lượt, 3.802 công dân, với 1.041 vụ việc; xử lý 8.549 đơn”. Điều này có thấy một bộ phận đã hiểu biết, nhận thức được quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, khi quyền lợi bị xâm phạm hoặc phát hiện những hành vi trái pháp luật, công dân đã tìm đến cơ quan nhà nước. Trong ngành công an, “công tác phòng, chống tội phạm đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội đề ra; kiềm chế được sự gia tăng của tội phạm; trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tích cực, tạo môi trường an ninh, an toàn, lành mạnh, được nhân dân đồng tình, ủng hộ cao. Đã điều tra, khám phá 36.040 vụ phạm tội về trật tự xã hội, đạt tỷ lệ 86,37% (cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra 11,37%), án rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đạt 90,26%; thụ lý giải quyết 134.285 tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố, tỷ lệ giải quyết đạt 90,12% (cao hơn chỉ tiêu Quốc hội giao). Các vụ án nổi cộm, gây bức xúc dư luận đều được điều tra làm rõ; triệt phá 1.335 băng, nhóm tội phạm hình sự các loại”. Các tội phạm giảm, hình thức xử phạt ít được áp dụng chứng tỏ phần nào số lượng người có hành vi trái pháp luật giảm đi, ý thức pháp luật của họ được nâng cao.
“Năm 2021, các Tòa án đã thụ lý 88.607 vụ với 160.574 bị cáo; đã giải quyết, xét xử được 79.409 vụ với 138.272 bị cáo, đạt tỷ lệ 89,62% về số vụ và 86,11% về số bị cáo (vượt 1,62% chỉ tiêu Quốc hội). Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng xét xử và xác định tầm quan trọng của việc xét xử cũng như hoạt động tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã chỉ đạo các Tòa án tăng cường đổi mới thủ tục xét hỏi; nâng cao chất lượng và kỹ năng điều khiển tranh tụng tại phiên tòa theo hướng thực chất, hiệu quả; chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hữu quan để khẩn trương đưa các vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định; phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm nhằm tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự đào tạo, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, học hỏi nâng cao kỹ năng và trình độ nghiệp vụ trong xét xử…
Chính vì vậy, chất lượng xét xử tiếp tục được đảm bảo và có chuyển biến tích cực; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,92% (giảm 0,26% so với năm trước); bị sửa là 4,52% (giảm 0,39% so với năm trước), đáp ứng yêu cầu Quốc hội đề ra. Các vụ án hình sự được giải quyết xét xử kịp thời bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội đã tạo được sự đồng thuận xã hội, được Nhân dân tin tưởng, ủng hộ, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Năm 2021, các Tòa án đã thụ lý sơ thẩm 2.880 vụ với 6.124 bị cáo phạm các tội kinh tế, tham nhũng; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 2.263 vụ với 4.125 bị cáo (chiếm 3,06% số vụ và 3,03% số bị cáo trong tổng số vụ án hình sự đã thụ lý). Các Tòa án đã xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án tham nhũng do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện, gây ra những thiệt hại đặc biệt lớn, được dư luận xã hội rất quan tâm như: Vụ án Lê Quang Hiếu Hùng và các bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức và Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; vụ án Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và các bị cáo phạm tội Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng và Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Công ty Cổ phần hóa dầu và nhiên liệu sinh học dầu khí Ethanol Phú Thọ và Tổng Công ty xây lắp Dầu khí Việt Nam; vụ án Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng và Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Dự án cải tạo và mở rộng sản xuất giai đoạn 2 – Công ty Gang thép Thái Nguyên; vụ án Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Hữu Tín và đồng phạm bị truy tố về các tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí và Vi phạm quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Bộ Công Thương và Sabeco; vụ án Buôn lậu, Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng, Rửa tiền, Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Công ty Nhật Cường và một số đơn vị liên quan…
Các Tòa án đã thụ lý 411.299 vụ việc; đã giải quyết, xét xử được 324.813 vụ việc, đạt tỷ lệ 79% (vượt 1% chỉ tiêu Nghị quyết Quốc hội đề ra). Chất lượng giải quyết, xét xử có nhiều tiến bộ; tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy là 0,57% (giảm 0,07% so với năm trước); bị sửa là 1,1% (giảm 0,1% so với năm trước)”
“TANDTC đã chỉ đạo các Tòa án đã tích cực thực hiện nhiều giải pháp như: tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức; làm tốt việc hướng dẫn các đương sự thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, tài liệu của vụ án; chủ động xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án.
Năm 2021, đã tổ chức 3.148 phiên tòa rút kinh nghiệm để rút ra những tồn tại, hạn chế trong quá trình xét xử nhằm nâng cao chất lượng các phiên tòa nói riêng và chất lượng giải quyết xét xử các loại án nói chung. Tập trung đẩy nhanh tiến độ giải quyết, xét xử, hạn chế đến mức thấp nhất việc để án quá thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ án không đúng căn cứ pháp luật”.

2.2. Những hạn chế, tồn tại

Một hạn chế, tồn tại lớn nhất trong hoạt động xây dựng pháp luật là tình trạng quy định pháp luật rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật khác, gây khó khăn trong quá trình tra cứu và tìm hiểu. Bên cạnh đó, các quy phạm pháp luật còn khó hiểu, khó áp dụng dẫn đến tình trạng áp dụng chưa đúng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này một phần là do kỹ thuật lập pháp cần bao quát các quan hệ xã hội được điều chỉnh nên không thể quá rõ ràng, cụ thể, một phần do trình độ, khả năng hiểu biết của một bộ phận người dân còn hạn chế. Bên cạnh đó, “còn tồn tại sự chồng chéo, xung đột giữa các đạo luật với nhau, giữa luật chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn luật này và văn bản hướng dẫn luật khác, dẫn đến tình trạng làm theo luật này thì đúng, luật khác thì sai. Tình trạng còn nhiều văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau, tình trạng pháp luật triệt tiêu pháp luật là hiện tượng không bình thường. Nhưng hiện tượng đó vẫn diễn ra, thậm chí còn khá phổ biến hiện nay,….
Điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm,… Trong báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về thu thập, hệ thống lại, làm rõ những điểm chồng chéo, xung đột giữa các quy định theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã nêu lên 20 điểm xung đột, chồng chéo lớn của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, đấu thầu, tiêu biểu như giữa các văn bản luật: Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật kinh doanh bất động sản, Luật quy hoạch đô thị, Luật đấu thầu; Luật Nhà ở, v.v….
Sự cồng kềnh, bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo làm giảm tính minh bạch của pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng, hiệu lực và hiệu quả điều chỉnh thấp. Sự xung đột, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với các đối tượng phải tuân thủ pháp luật như sự lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc, lỡ cơ hội đầu tư, làm tăng chi phí và rủi ro đối với hoạt động kinh doanh. Đồng thời, các xung đột, chồng chéo này cũng là những cản trở đối với việc thực hiện pháp luật, làm giảm niềm tin vào pháp luật, tạo cơ hội phát sinh các hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng nhất là trong thực hiện các công trình, chương trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật vẫn còn hạn chế, bất cập. Hệ thống pháp luật còn cồng kềnh, phức tạp, thiếu đồng bộ, tính ổn định chưa cao; một số quy định chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn, khó đi vào cuộc sống; tình trạng chậm, nợ ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành chưa được khắc phục triệt để; các điều kiện thi hành pháp luật chưa được bảo đảm; việc tổ chức thi hành pháp luật ở một số nơi còn lúng túng, hiệu quả chưa cao; ý thức chấp hành pháp luật trong một bộ phận cán bộ và nhân dân còn thấp. Những hạn chế, bất cập xuất phát từ nhiều nguyên nhân”.

Tham khảo thêm ⇒ Tiểu luận: Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo

3. Một số kiến nghị nâng cao ý thức pháp luật

Hiện nay, Việt Nam đang ngày hội nhập sâu và rộng với thế giới, tham gia nhiều tổ chức quốc tế, là thành viên của nhiều điều ước quốc tế, theo đó, kinh tế, pháp luật trong nước cũng điều đó đặt ra yêu cầu cần nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, có ý thức pháp luật trong công cuộc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đạt được điều đó, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở cho mọi hoạt động xã hội.
Hệ thống pháp luật có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xã hội. Dù thể hiện tư tưởng và bảo vệ giai cấp cầm quyền, pháp luật cũng nhằm bảo vệ lợi ích tập thể, lợi ích chung. Do đó, hệ thống pháp luật luôn được các Nhà nước tập trung xây dựng, củng cố và hoàn thiện. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, từ những văn bản pháp luật còn thô sơ, kỹ thuật lập pháp còn hạn chế, đến nay, qua nhiều năm, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Đạt được điều đó là do hoạt động xây dựng pháp luật luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Để ban hành một văn bản quy phạm pháp luật phải trải qua quy trình, trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, có sự nghiên cứu của các nhà lập pháp, dự thảo văn bản, lấy ý kiến, thông qua văn bản pháp luật. Kết quả của hoạt động này, hàng năm, nhiều văn bản pháp luật mới ra đời, nhiều quy phạm pháp luật được sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lý phù hợp cho các quan hệ xã hội vận động và phát triển.
“Tuy nhiên, trước yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng, quản lý đất nước, hệ thống pháp luật nước ta còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nhất định, chưa đáp ứng các yêu cầu của một hệ thống pháp luật hoàn thiện như tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và các tiêu chuẩn về kỹ thuật pháp lý. Còn có những lĩnh vực của đời sống xã hội chưa được luật hoá, nhiều quan hệ xã hội mới chỉ được điều chỉnh bằng các văn bản dưới luật, do vậy hiệu quả điều chỉnh không cao. Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành còn bộc lộ sự mâu thuẫn, chồng chéo, chưa đảm bảo tính thống nhất hài hoà, sự mâu thuẫn giữa các văn bản luật với nhau, giữa văn bản luật và văn bản dưới luật, các văn bản dưới luật với nhau còn khá phổ biến. Đây là hạn chế lớn nhất của hệ thống pháp luật nước ta, điều đó gây khó khăn rất nhiều cho công tác tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật”.
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần nắm vững những vấn đề lý luận về pháp luật, có sự nghiên cứu tập trung, lâu dài, chuyên sâu trong việc thực hiện các chương trình pháp luật, “xây dựng chiến lược phát triển pháp luật gắn với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội”, nghiên cứu hệ thống pháp luật của các quốc gia tiên tiến trên thế giới, có sự học hỏi kỹ thuật lập pháp, những quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, “tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đối với công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; Nâng cao chất lượng, năng lực của các cơ quan pháp chế bộ, ngành trong việc ban hành văn bản pháp quy; Nhà nước cần thường xuyên tổ chức công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật và tổng kết kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật”.
Thứ hai, Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong mọi tầng lớp nhân dân.
“Để nâng cao ý thức pháp luật, chú trọng xây dựng một hệ thống pháp luật thôi chưa đủ, bên cạnh đó còn cần phải không ngừng bồi dưỡng, giáo dục nhằm nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Bồi dưỡng, giáo dục pháp luật là sự tác động một cách có hệ thống, thường xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người một trình độ kiến thức pháp lý nhất định để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật. Để công tác giáo dục nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân đạt hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ một số biện pháp cơ bản sau:
– Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật để nhân dân hiểu đầy đủ nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn. Các hình thức thông tin cần được cải tiến cho phù hợp với mỗi nhóm đối tượng trong xã hội để đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt công tác này, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng để có những hình thức và phương pháp thích hợp, mở rộng tính dân chủ công khai bảo đảm quyền được thông tin của nhân dân.

Tiểu luận Ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật & thực hiện pháp luật
Tiểu luận Ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng pháp luật & thực hiện pháp luật

– Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng và Nhà nước. Công tác giảng dạy pháp luật cần được tổ chức sâu rộng, cho mọi đối tượng, từ các trường phổ thông, trưng học đến đại học và bồi dưỡng ở mọi ngành nghề, lĩnh vực. Để công tác giảng dạy pháp luật đạt hiệu quả, cần xây dựng chương trình, nội dung, giáo trình phù hợp cho từng loại đối tượng theo từng cấp học khác nhau.
– Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có năng lực và trình độ, có phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế. Hoạt động của đội ngũ cán bộ pháp lý này sẽ góp phần nâng cao vai trò của pháp luật, củng cố pháp chế XHCN, góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
– Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách tích cực vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật thông qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
– Thực hiện kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn hoá, nâng cao trình độ chung của nhân dân. Đạo đức và văn hoá là những yếu tố quan trọng để tạo ra ý thức pháp luật đúng đắn, đồng thời giữa đạo đức, văn hoá và pháp luật XHCN có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để giáo dục pháp luật đạt kết quả, cần kết hợp với giáo dục đạo đức và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân.
Thứ ba: Tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật hiệu quả trong nhân dân
Công tác xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật là ba hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm đảm bảo sự tác động, điều chỉnh có hiệu quả của pháp luật và sự phát triển năng động, có định hướng của các quan hệ xã hội. Các hoạt động này đòi hỏi các chủ thể thực hiện chúng đều phải có trình độ nhận thức và ý thức pháp luật nhất định. Công tác xây dựng pháp luật chủ yếu tập trung vào một số cơ quan và một số bộ phận cán bộ nhất định có chức năng chuyên làm công tác xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, nhân dân cũng tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật bằng nhiều hoạt động nhất định như thảo luận đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật, qua đó nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật của mình.
Bên cạnh việc ban hành văn bản pháp luật, việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đó, đưa các văn bản đó vào cuộc sống, làm cho chúng phát huy được vai trò điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, cần tổ chức cho nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật của nhà nước, thông qua quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, nhân dân sẽ được trang bị thêm kiến thức pháp luật và ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật. Đối với hoạt động áp dụng pháp luật, đây là hình thức nhà nước thông qua các cơ quan và người có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật.
Áp dụng pháp luật được tiến hành khi có những chủ thể không muốn hoặc không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước hoặc cán bộ có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện chức năng của nhà nước, do vậy phải đảm bảo tính sáng tạo, tính tổ chức cao và chặt chẽ. Về nguyên tắc, hoạt động áp dụng pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, tuy nhiên hoạt động này sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu có sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng để xét xử các hành vi vi phạm pháp luật sẽ tác động đến nhận thức của các đối tượng trong nhân dân, từ đó có tác dụng giáo dục đối với nhân dân, khiến nhân dân có ý thức tuân thủ pháp luật cao hơn”.

Phần kết luận đối với hoạt động xây dựng pháp luật

“Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật và sự đánh giả về mức độ công bằng, bình đẳng; tính hợp pháp hay không hợp pháp đổi với các hành vi thực tiễn” . Ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Mỗi người dân có ý thức pháp luật, xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật, từ đó, nâng cao chất lượng cuộc sống. “Công việc này đòi hỏi phải có những đổi mới sâu sắc về nhận thức và thực hiện nhiều giải pháp trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi cán bộ, nhân dân. Thực hiện đồng bộ một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao dân trí pháp lý, xây dựng ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật, đảm bảo cho vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước”. Nâng cao ý thức pháp luật là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.

DOWNLOAD


 

Contact Me on Zalo